Viêm vú hậu sản

2016-12-12 01:49 PM

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm vú hậu sản xảy ra lác đác ở những người mẹ nuôi con bằng sữa mẹ sau khi họ trở về nhà một thời gian ngắn, hoặc nó có thể xảy ra dưới hình thái dịch trong bệnh viện. Tụ cầu vàng thường là tác nhân gây bệnh. Viêm thường một bên, và những bà mẹ cho con bú lần đầu thường hay bị hơn.

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt. Điều trị bao gồm kháng sinh có tác dụng chống lại tụ cầu kháng penicilin (dicloxacillin hoặc cephalosporin) và làm cạn sữa đều đặn bằng cách cho bú tiếp đó vắt sạch sữa còn lại bằng tay hay với một dung cụ hút cơ học.

Nếu bà mẹ bắt đầu liệu pháp kháng sinh trước khi bắt đầu mưng mủ thì sự nhiễm trùng thường có thể được khống chế trong 24 giờ. Nếu chậm trễ có thể dẫn đến áp xe. Mặc dù mẹ có viêm vú hậu sản, đứa trẻ vẫn luôn luôn phát triển mà không cần liệu pháp kháng vi khuẩn dự phòng.

Bài viết cùng chuyên mục

Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ

Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ

Đề phòng chuyển dạ đẻ non

Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.

Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh

Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén

Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật

Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén

Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai

Chảy máu trong quý ba thai kỳ

Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.

U nguyên bào nuôi do thai

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Tiền sản giật và sản giật

Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu

Chửa ngoài tử cung

Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai

Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Sẩy thai tự nhiên

Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên

Nôn trong thai nghén

Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.

Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai

Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.

Dinh dưỡng trong khi có thai

Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa

Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ

Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.

Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén

Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian