U nguyên bào nuôi do thai

2016-12-12 11:31 AM

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

U nguyên bào nuôi là một loại bệnh lý bao gồm chửa trứng, chửa trứng xâm nhiễm và ung thư nguyên bào nuôi. Di truyền học tế bào đã chỉ ra rằng chửa trứng toàn phần phát triển từ sự thụ tinh nam tính, mà nó hầu hết luôn là thụ tinh nguyên bội (46 thể nhiễm sắc). Chửa trứng bán phần là từ sự thụ tinh mà trong đó bộ thể nhiễm sác của bố trội hơn bổ thể nhiễm sác của mẹ và như vậy nhìn chung là thụ tinh đa bội thể (có 3 thể nhiễm sắc số 23 hoặc nhiều hơn). Chửa trứng bán phần thường chỉ thấy có phôi thai hoặc túi thai phát triển chậm hơn và triệu chứng nghèo nàn và về mặt lâm sàng thường biểu hiện như thai chết lưu.

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Tỷ lệ cao nhất của u tế bào nuôi xảy ra ở một số nước đang phát triển, với tỷ lệ 1: 125 thai nghén tại một vố vùng của phương Đông, Ở Mỹ tần suất là 1: 1500 thai nghén. Những yếu tố nguy cơ bao gồm tình trạng kinh tế xã hội thấp kém, tiền sử chửa trứng, và tuổi dưới 18 hoặc trên 40. Khoảng 10% phụ nữ cần phải điều trị thêm nữa sau khi lấy trứng ra, 5% phát triển thành ung thư nguyên bào nuôi.

Triệu chứng và dấu hiệu

Buồn nôn và nôn quá mức bình thường xảy ra ra hơn môt phần ba số bệnh nhân chửa trứng. Chảy máu tử cung bắt đầu từ 6 - 8 tuần của thai nghén nhận thấy ở hầu hết các trường hợp và coi là dấu hiệu dọa xảy thai hoặc sẩy thai không hoàn toàn. Vào khoảng một phân năm số trường hợp, tử cung to hơn so với thai bình thường ở cùng tuổi thai. Các túi trứng còn nguyên vẹn hoặc bị xẹp có thể sẩy qua đường âm đạo. Những chùm giống chùm nho hoặc những nhung mao lan rộng có ý nghĩa chẩn đoán. Đôi khi nắn thấy nang buồng trứng to cả hai bên. Đấy là kết quả củạ sự quá kích thích buồng trứng do hCG tăng cao.

Tiền sản giật - sản giật thường là loại phát triển nhanh chóng, có thể phát triển trọng quí hai của thai nghén, nhưng ít gặp.

Ung thư nguyên bào nuôi có thể được biểu hiện bằng chảy máu tử cung liên tục hoặc tái phát sau khi lấy trứng ra, sau đẻ sẩy hoặc chửa ngoài tử cung. Sự hiện diện của khối u loét ở âm đạo, khối ở tiểu khung hoặc thấy khối u di căn xa. Có thể xác lập chẩn đoán bằng xét nghiệm bệnh lý của tổ chức nạo hoặc sinh thiết.

Những phát hiện cận lâm sàng

Lượng beta hCG huyết thanh trên 40.000 mIU/mL hay hCG nước tiểu trên 100.000 IU/24 giờ rất có thể là chửa trứng, vì rằng những giá trị như thế là ít khi thấy ở thai nghén bình thường (thí dụ trong chửa nhiều thai)

Ghi hình ảnh

Siêu âm đã thực sự thay thế những phương pháp chẩn đoán khác trước khi lấy trứng ra. Sự tăng âm vang chứng tỏ các nhung mao phù nằm trong tử cung giãn rộng và không thấy thai và rau thai là đặc trưng của bệnh. Chụp phim ngực trước can thiệp được chỉ định để loại trừ di căn phổi của tế bào lá nuôi.

Điều trị

Biện pháp đặc hiệu (ngoại khoa)

Khi đã xác định chẩn đoán là chửa trứng làm sạch buồng tử cung càng sớm càng tốt bằng cách hút tốt. Đừng cắt bỏ nang buồng trứng hoặc cắt bỏ buồng trứng, sự phát triển nang hoàng tuyến sẽ xảy ra sau khi trứng được lấy ra.

Nếu như khi mổ hoặc khi theo dõi về sau phát triển thấy có mô ác tính thì phải điều trị bằng hóa chất.

Có thể xảy ra tình trạng nhiễm độc giáp trạng khó phân biệt về mặt lâm sàng với bệnh tuyến giáp. Lấy bỏ trứng sẽ điều chỉnh nhanh chóng hoạt động quá mức của tuyến giáp.

Biện pháp theo dõi

Cần chỉ định tránh thai có hiệu quả (dùng viên thuốc tránh thai thì hơn). Ban đầu phải đánh giá lượng hCG hàng tuần. Thai trứng tỏ ra suy thoái bằng hCG. Sau hai thử nghiệm hàng tuần âm tính (< 5 mIU/mL), khoảng cách giữa các xét nghiệm có thể được thưa ra mỗi tháng một lần trong 6 tháng và sau đấy cứ hai tháng một lần trong 1 năm. Nếu như mức độ hCG giữ nguyên hoặc bắt đầu tăng, bệnh nhân nên được đánh giá bằng chụp phổi lại và nong nạo tử cung trước khi bắt đầu hóa liệu pháp.

Hóa liệu pháp chống u

Đối với những bệnh nhân nguy cơ thấp với tiêu lượng tốt, cho methotrexat, 0,4 mg/kg tiêm bắp thịt trong thời gian 5 ngày, hoặc dactinomycin 10 - 12 /µg/kg/ngày tĩnh mạch trong 5 ngày. Chuyển những bệnh nhân với tiên lượng tồi đến trung tâm khối u, nơi mà hóa nghiệm pháp nhiều chất có thể được sử dụng. Những tác dụng phụ chán ăn, buồn nôm nôn, viêm miệng, phát ban, ỉa chảy, suy tủy xương thường mất đi sau khoảng 3 tuần và có thể được cải thiện bằng cách sử dụng acid folic. Đợt lập lại methotrexat sau hai tuần nhìn chung là đảm bảo để phá hủy nguyên bào lá nuôi và duy trì hàm lượng hormon hướng sinh dục rau thai ở mức zero, theo như được chỉ định bàng xác định đơn vị nhỏ hCG beta.

Biện pháp hỗ trợ

Chỉ định thuốc uống tránh thai (nếu có thể chấp nhận được) hoặc phương pháp tránh thai đáng tin cậy khác để tránh sự nguy hại và nhầm lẫn tăng hCG do thai nghén mới. Các xét nghiệm hCG phải âm tính trong 1 năm trước khi cho có thai lại. Sau chửa trứng có thai thì phải theo dõi hCG trong 6 tuân sau đẻ.

Tiên luợng

Sống được khi ngừng điều trị hóa chất 5 năm, kể cả khi có biểu hiện di căn có thể hy vọng được ở ít nhất 85% trường hợp ung thư nguyên bào nuôi.

Bài viết cùng chuyên mục

Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ

Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ

Viêm vú hậu sản

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.

Đề phòng chuyển dạ đẻ non

Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.

Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh

Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén

Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật

Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén

Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai

Chảy máu trong quý ba thai kỳ

Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.

Tiền sản giật và sản giật

Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu

Chửa ngoài tử cung

Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai

Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Sẩy thai tự nhiên

Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên

Nôn trong thai nghén

Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.

Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai

Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.

Dinh dưỡng trong khi có thai

Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa

Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ

Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.

Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén

Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian