Sẩy thai tự nhiên

2016-12-10 07:04 PM

Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Sẩy thai được định nghĩa khi kết thúc thai nghén trước tụần thứ 20 của thai kỳ. Vào khoảng ba phần tư trường hợp sẩy thai tự nhiên xảy ra trước tuân thứ 16, trong số đó ba phần tư xẩy ra trước tuần lễ thứ 8. Gần 20% tổng số thai nghén nhận biết được về mặt lâm sàng kết thúc bằng sẩy thai tự nhiên.

Hơn 60% trường hợp sẩy thai tự nhiên là hậu quả của dị dạng nhiễm sắc thể do yếu tố người mẹ hoặc bố, khoảng 15% là do chấn thương, nhiễm khuẩn, thiểu dưỡng, đái tháo đường, nhược năng tuyến giáp hay dị dạng giải phẫu của người mẹ. Không có chứng cớ chắc chắn là sẩy thai có thể xẩy ra do kích thích tâm thần như là rất sợ hãi, sầu não, cáu giận hoặc lo âu.

Vào khoảng một phần tư các trường hợp, nguyên nhân sẩy thai không thể xác định được. Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên.

Điều quan trọng là phân biệt những phụ nữ có bệnh sử cổ tử cung thiểu năng với những phụ nữ có nhiều lần sẩy thai sớm điển hình và với những phụ nữ có đẻ non, ối vỡ sớm. Về đặc điểm, cổ tử cung thiểu năng có sự giãn cổ tử cung "âm thầm" (nghĩa là có kèm cobóp tử cung chút ít) giữa 16 - 28 tuần tuổi thai.

Những phụ nữ có cổ tử cung thiểu năng thường có sự giãn mở cổ tử cung đáng kể (2cm hoặc hơn) và rất ít triệu chứng. Khi cổ tử cung giãn tới 4cm hoặc hơn, cơn co tử cung có tác dụng hoặc vỡ màng ối có thể xảy ra sau đó tiếp đến độ mở cổ tử cung. Điều đó không làm thay đổi chẩn đoán ban đầu. Những yếu tố làm cho cổ tử cung thiểu năng là có tiền sử cổ tử cung thiểu năng với lần thai nghén trước, khoét chóp hay phẫu thuật cổ tử cung, tổn thương cổ tử cung, dùng DES và những bất thường và giải phẫu của cổ tử cung. Trước khi có thai hay trong 3 tháng đầu, không có phương pháp gì để xác định liệu cổ tử cung cuối cùng sẽ là thiểu năng hay không. Sau 14 - 16 tuần, siêu âm co thể được sử dụng để đánh giá giải phẫu bên trong của đoạn dưới tử cung và cổ tử cung về những bất thường hình phễu và ngắn bất thường là chỉ báo thiểu năng cổ tử cung.

Những triệu chứng và dấu hiệu

Dọa sẩy

Chảy máu hoặc đau bụng xảy ra, nhưng thai nghén vẫn tiếp tục. Cổ tử cung không bị giãn mở.

Sẩy không tránh được

Cổ tử cung mở, nhưng các thành phần của thai không đi qua. Chảy máu và đau bụng vẫn tiếp tục và các thành phần của thai đi qua ống cổ tử cung thì được coi là sẩy thai không tránh được.

Sẩy thai hoàn toàn

Thai và rau thai bị tống ra ngoài hoàn toàn. Hết đau nhưng rỉ máu vẫn có thể tiếp tục.

Sẩy thai không hoàn toàn

Một phần của sản phẩm thai nghén (thường là rau thai) vẫn còn ở trong tử cung. Chỉ có co bóp tử cung nhẹ nhưng chảy máu thì vẫn tiếp tục và thường là rất nhiều.

Thai chết lưu

Thai nghén ngừng phát triển, nhưng thai vẫn không bị tống ra ngoài. Triệu chứng thai nghén biến mất, có dịch nâu ở âm đạo nhưng không phải là máu tự do, không đau. Cổ tử cung hơi chắc và hơi to ra, tử cung trở nên nhỏ hơn và mềm không đều, hai phần phụ bình thường.

Những phát hiện về xét nghiệm

Các test thai nghén cho thấy nông độ hCG thấp hoặc giảm. Xét nghiệm máu toàn phần cần làm nếu chảy máu nhiều. Xác định Rh và dùng globulin miễn dịch Rho (D) nếu như Rh âm. Tất cả các mảnh tổ chức lượm được đều cần được xem xét bệnh lý học.

Những biểu hiện siêu âm

Túi thai có thể được xác định vào 5 - 6 tuần kể từ kỳ kinh cuối cùng, âm vang thai vào 6 tuần và hoạt động tim thai 6 - 7 tuần. Theo dõi liên tiếp thường được yêu cầu để đánh giá thay đổi kích thước của phôi. Một túi ối nhỏ không đều, không có âm vang thai thì chẩn đoán sẩy thai không tránh được.

Chẩn đoán phân biệt

Chảy máu xảy ra trong sẩy thai trong tử cung phải được phân biệt đối với chảy máu bất thường của chửa ngoài tử cung và chảy máu không phóng noãn ở người không có thai. Sự tống ra ngoài những gai rau ứ nước trong máu chảy ra thì chẩn đoán là sẩy thai trứng.

Điều trị

Xử trí chung

Dọa sẩy thai: Để bệnh nhân nghỉ ngơi tại giường trong vòng 24 - 48 tiếng, tiếp theo là những hoạt động thường ngày bắt đầu trở lại từ từ, tránh giao hợp và thụt tháo. Trị liệu hormon là chống chỉ định. Kháng sinh chỉ nên được sử dụng nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn.

Thai lưu hoặc sẩy thai không tránh được: Điều này cần tìm lời khuyên giải quyết số phận của thai và lập kế hoạch để kết thúc thai nghén bằng phương pháp có cân nhắc tại thời điểm đã được thầy thuốc và bệnh nhân chọn lựa.

Nong cố tử cung rồi hút là phương pháp được chọn lựa. Viên đặt âm đạo prostaglandin là cách làm có hiệu quả.

Xử trí ngoại khoa

Sẩy thai không hoàn toàn: Lấy hết những thành phân của thai còn sót lại trong tử cung ngay lập tức. Giảm đau và phóng bế hai bên cổ tử cung là cơ ích tiếp theo thăm dò tử cung bằng kim hình bầu dục hoặc hút buồng tử cung.

Khâu vòng cổ tử cung và hạn chế các hoạt động: Đây là sự điều trị đúng chọn lựa cho trường hợp cổ tử cung thiểu năng. Dải băng 5mm Mersilene được sử dụng để tạo ra một loại mũi khâu tinh khiết vòng quanh cổ tử cung bằng cách dùng phương pháp Mc Donald cũng như phương pháp Shirodkar. Khâu vòng cố tử cung nên được thực hiện cẩn thận khi cổ tử cùng giãn nở trước đó hoặc màng ối bị sa vào trong âm đạo. Vỡ màng ối và nhiễm trùng là chống chỉ định đặc biệt của khâu vòng cố tử cung. Nuôi cấy bệnh phẩm lấy ở cổ tử cung để tìm lậu cầu khuẩn, Chlamydia và liên cầu nhóm B cần có kết quả trước hoặc tại thời điểm khâu vòng cổ tử cung.

Bài viết cùng chuyên mục

Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ

Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ

Viêm vú hậu sản

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.

Đề phòng chuyển dạ đẻ non

Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.

Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh

Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén

Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật

Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén

Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai

Chảy máu trong quý ba thai kỳ

Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.

U nguyên bào nuôi do thai

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Tiền sản giật và sản giật

Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu

Chửa ngoài tử cung

Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai

Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Nôn trong thai nghén

Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.

Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai

Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.

Dinh dưỡng trong khi có thai

Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa

Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ

Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.

Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén

Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian