Cho con bú: nuôi con bằng sữa mẹ

2016-12-12 04:34 PM

Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nuôi con bằng sữa mẹ nên khuyến khích bằng các biện pháp giáo dục trong thời kỳ thai nghén và hậu sản. Cần phải nói cho người mẹ biết và ích lợi của nuôi con bằng sữa mẹ: hài lòng về cảm xúc, làm tăng thêm mối liên kết giữa mẹ và con, kinh tế và cung cấp miễn dịch quan trọng cho đứa trẻ. Thời kỳ mất kinh kết hợp với cho con bú thường xuyên và kéo dài giúp cho hạn chế sinh đẻ tốt cho đến khi kinh nguyệt bát đầu vào 6 - 12 tháng sau khi đẻ hoặc khi giảm mức độ cho bú. Nếu như người mẹ phải trở lại làm việc thì ngay cả thời gian cho con bú ngắn ngủi cũng có ích. Sự truyền globulin miễn dịch trong sữa non và sữa của vú bảo vệ cho đứa trẻ chống lại nhiều bệnh nhiễm khuẩn toàn thân và nhiễm khuẩn đường ruột. Các đại thực bào và lympho bào được truyền vào đứa trẻ qua sữa đóng một vai trò bảo vệ miễn dịch. Hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ bú mẹ ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh. Những đứa trẻ bú mẹ ít bị bệnh nhiễm khuẩn và virus hơn, bệnh ỉa chảy nhẹ hơn, ít dị ứng hơn và ít bị béo phệ về sau hơn là những đứa trẻ nuôi bộ.

Cho bú thường xuyên đòi hỏi phải có giờ giấc để tăng cường tiết sữa và cho bú có kết quả. Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ. Sự cung cấp sữa có thể được tăng lên bằng cách tăng hút sữa và tăng cường nghi ngơi.

Những bà mẹ cho con bú nên dùng hơn 2 lít dịch/ngày. Ở Mỹ kêu gọi tăng thêm 21g protein (thêm vào 44g/ngày của mức cơ bản cho một phụ nữ, và thêm 550Kcal/ngày trong 6 tháng đầu thời kỳ cho con bú. Calci đưa vào phải là 1200mg/ngày. Tiếp tục cung cấp bổ sung vitamin và muối khoáng trước đẻ là tốt. Những người ăn chay khắt khe họ kiêng cả sữa và trứng nên thường xuyên bổ sung thêm vitamin B12 trong thời kỳ thai nghén và cho con bú.

Ảnh hưởng của thuốc ở người mẹ cho con bú

Các thuốc được sử dụng cho người mẹ cho con bú có thể tích luỹ trong sữa và được truyền sang đứa trẻ. Mức độ thuốc đi vào trong sữa phụ thuộc vào sự hoà tan trọng lipid, cơ chế vận chuyển và mức độ ion hóa của thuốc.

Ức chế tiết sữa

Ức chế cơ học

Sau khi đã cho bú một thời gian, phương pháp hạn chế tiết sữa đơn giản nhất và an toàn nhất là chuyển dần đứa bé sang bú chai hoặc uống cốc từ từ trong khoảng thời gian trên 3 tuần. Sự cung cấp sữa sẽ giảm với nhu cầu giảm và sự khó chịu tối thiểu xảy ra sau đó. Nếu việc cho bú phải ngừng đột ngột thì người mẹ nên tránh kích thích núm vú, cố nhịn vắt sữa và sử dụng nịt vú. Chườm đá và thuốc giảm đau có thể có ích. Nếu cần giảm tiết sữa ngay cả trước khi bắt đầu đợt cho bú cũng sử dụng kỹ thuật trên. Sự cương sữa sẽ thoái lui từ từ sau 2 - 3 ngày.

Ức chế bằng hormon

Có các dược phẩm hormon uống và tiêm có tác dụng kéo dài để hạn chế tiết sữa. Chúng đều có tác dụng nếu như đã bắt đầu vào đẻ nhưng thỉnh thoảng nó có tác dụng phụ - tăng nguy cơ huyết khối tắc mạch (estrogen); mọc lông tóc (androgen), thay đổi huyết áp và thay đổi cảm xúc tạm thời (bromocriptin).

Bảng. Các thuốc và các chất được sử dụng thận trọng hoặc không được sử dụng cho các bà mẹ đang cho con bú(1).

(Các thuốc khác cũng có chống chỉ định trong khi có thai và cho con bú. Đánh giá bất kỳ thuốc nào về sự cần thiết và những ảnh hưởng có hại tiêm tàng của nó).

Rượu

Không có ảnh hưởng có hại trừ khi uống quá nhiều, khi đó có thể làm giảm sự phát triển chiều cao và tính dịu kích thích.

Kháng sinh

Aminoglycosid. Không nên; sẽ làm thay đổi vi khuẩn đường ruột của đứa trẻ.

Nitriturantoin. Có thể gây ra bệnh thiếu máu huyết tán cho đứa trẻ kèm thiếu hụt glucose - 6 - phosphat dehydrogenase (G6 PD).

Tetracyclin. Ảnh hường liên quan đến liều lượng - nếu lượng đứa trẻ nhận từ sữa mẹ là quá ít để gây ra mất màu của răng thì an toàn.

Chloramphenicol(2). Trẻ sơ sinh không có khả năng kết hợp thuốc có hại tiềm tàng với tủy xương dẫn đến thiếu máu, shock và từ vong.

Sulfonamid(2). Có thế gây ra vàng da trong thời kỳ sơ sinh, có thể gây ra bệnh thiếu máu huyết tán cho đứa trẻ do thiếu glucose - 6 - phosphat dehycLrogenase (G6PD).

Metronidazol. Việc cho con bú có thể lại tiếp tục 48 giờ sau khi dùng liều cuối cùng.

Chất chống đông

Phenindion(2). Có thể sử dụng heparin hay wafarin thay thế.

Kháng histamin

Chống chỉ định bởi vì tăng nhạy cảm của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đối với chất kháng histanin.

Thuốc chống ung thư(2)

Ngừng cho con bú nếu như đang dùng các thuốc này.

Kháng giáp trạng

Thiouracil(2), methemazol(2). Chống chỉ định; có thể gây ra bướu giáp hoặc chứng mất bạch cầu hạt.

Propylthiouracil. Cân nhắc sự an toàn.

Thuốc tim mạch

Quinidin(2). Chống chỉ định; có thể gây ra loạn nhịp tim cho trẻ.

Cimetidin(2), ranitidin

Tập trung ở sữa; có thế ức chế độ acid dạ dày và gây ra kích thích hệ thống thần kinh trung ương.

Alcaloid cựa gà

Ergotamin (với liều điều trị chửng dau nừa dầu) (2). Gây ra nôn, ỉa chảy, có giật - Có thể ức chế sự tiết sữa.

Bromocriptin(2). Ức chế sự tiết sữa.

Muối vàng

Chống chỉ định.

Hormon

Thuốc tránh thai uống. Chống chỉ định; có thể làm giảm cung cấp sữa. Viên nhỏ chỉ chứa progestin có thể sử dụng được.

Thuốc nhuận tràng

Cascara, senna. Có thể gây ra ia chảy cho trẻ.

Lithium carbonat(2)

Chống chỉ định vì độc tính.

Nicotin

Làm tăng bệnh hô hấp của trẻ tiếp xúc với khói thuốc.

Các chất phóng xạ đế thử nghiệm(2).

Ga67. Một số lượng không đáng kể bài tiết qua sữa; không cho bú hai tuần.

I125. Ngừng cho bú trong 48 giờ.

I131. Sau một liều thử nghiệm, cho bú có thể ngừng sau 24 - 36 giờ, sau một liều điều trị, có thể ngừng cho bú 2 - 3 tuần.

Tc99m. Thôi cho bú trong 72 giờ (thời gian bán hủy 6 giờ).

Thuốc an thần, thuốc trấn an thần kinh

Có thể làm an thần gây ngủ cho đứa trẻ. Benzodiazepin nên tránh.

Các thuốc khác

Cafein. Với số lượng lớn gây kích thích, khó ngủ.

Canabis(2), cocain(2), polyhalogenat biphenyl (ví dị PCBs, PBBs); B Lysergic acid (LSD) (2).  Chống chỉ định; có thể ánh hưỏng khả năng chăm sóc và nuôi dưỡng của người mẹ.

(1) in lại có sửa đổi.

(2) thuốc chống chỉ định tuyệt đối.

(1) Ức chế bằng estrogen Ethenyl estradiol 0,05mg, dùng như sau:

Bốn viên (0,2mg) hai lần một ngày trong ngày hậu sản đầu tiên.

Ba viên (0,15mg) hai lần một ngày vào ngày thứ hai.

Hai viên (0,1mg) hai lần một ngày vào ngày thứ ba.

Một viên (0,05mg) hai lần một ngày vào ngày thứ tư đến ngày thứ bảy.

(2) Ức chế hằng estrogen và androgen - Testosteron enanthat 180mg/ml, và estradiol valerat 8mg/ml, 2 ml tiêm bắp ngay sau khi đẻ, rất có hiệu quà.

(3) Ức chế bằng bromocriptin - Bromocriptin 2 ống uống hai lần một ngày cùng với bữa ăn trong 10 - 14 ngày sẽ sức chế tiết sữa ở những bà mẹ không muốn nuôi con bằng sữa mẹ hoặc sau khi đẻ thai lưu hoặc sẩy thai. Sự tiết sữa nhảy vọt có thể xảy ra khi ngừng thuốc. Không nên bắt đầu dùng thuốc trước 4 giờ sau đẻ trước khi những dấu hiệu sống đã ổn định. Hạ huyết áp giả tạo, buồn nôn, đau đầu, chóng mặt, xung huyết mũi và táo bón nhẹ đã được nhận thấy coi là các tác dụng phụ. Những triệu chứng này có thể được làm dịu đi bàng cách giảm liều thuốc tạm thời. Tăng huyết áp, cơn giật, đột quỵ và nhồi máu cơ tim cũng đã thấy ớ một số ít bà mẹ. Vì có khả năng này, nên thuốc không được sử dụng cho những bệnh nhân tăng huyết áp do thai nghén và phải ngừng dùng nếu xảy ra đau đầu nhiều hoặc rối loạn thị giác. Huyết áp phải được theo dõi cẩn thận trong suốt thời gian sử dụng bromocriptin.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm vú hậu sản

Viêm vú thường bắt đầu trong vòng ba tháng sau đẻ và có thể bắt đâu với một vết thương hay nứt núm vú. Có sự viêm mô tế bào rõ ràng ở vùng tổ chức vú, với biểu hiện đỏ, sưng, nóng tại chỗ và sốt.

Đề phòng chuyển dạ đẻ non

Giáo dục bệnh nhân để nhận biết những cơn co tử cung đều đặn thường xuyên bằng cách báo động cho nhân viên y tế để đánh giá những bệnh nhân hây sớm.

Đề phòng huyết tán của trẻ sơ sinh

Những phần tử kháng thể quá lớn không qua được qua rau thai và ảnh hưởng đến thai có Rh dương tính. Độ thanh thải globulin của người mẹ đủ thấp để tiếp tục bảo vệ được 12 tuần.

Những biến chứng ngoại khoa trong thai nghén

Thiếu oxy trong quá trình phát triển của thai trong quí đầu có thể dẫn đến dị dạng bẩm sinh. Như vậy quí hai thường là thời gian thích hợp để tiến hành phẫu thuật

Tình trạng bệnh nội khoa gây biến chứng thai nghén

Thai nghén đi kèm với sự tăng đề kháng của các mô đối với insulin, dẫn đến tăng insulin trong máu cũng như tăng glucose và triglycerid, những biến đổi này là do lactogen rau thai

Chảy máu trong quý ba thai kỳ

Bệnh nhân nên được nằm viện và nghỉ ngơi tại giường liên tục theo dõi thai. Xét nghiệm máu toàn phần phải làm hai đến bốn nhóm máu đã phân nhóm và thử phản ứng chéo.

U nguyên bào nuôi do thai

Chửa trứng bán phần có xu hướng theo sau là giai đoạn lành tính, trong khi chửa trứng toàn phần có khuynh hướng đa số trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

Tiền sản giật và sản giật

Không có cách can thiệp nào tỏ ra là có giá trị để làm giảm tần suất xẩy ra hay tính nghiêm trọng của quá trình qua nghiên cứu một cách khách quan bao gồm lọt tiểu

Chửa ngoài tử cung

Thử nghiệm thai nghén định lượng trong huyết thanh nói chung cho thấy có mức độ thấp hơn so với thai nghén bình thường cùng tuổi thai

Sẩy thai liên tiếp

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Sẩy thai tự nhiên

Hiện nay không có chứng cớ rằng đầu máy video hoặc lĩnh vực điện tử phối hợp liên quan đến vấn đề tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên

Nôn trong thai nghén

Nôn nặng, dai dẳng trong khi có thai gọi là chứng nôn nghén nặng, có thể làm cho kiệt quệ cần phải nằm viện. Sự mất nước, nhiễm toan, suy dinh dưỡng có thể phát triển cùng với sự nôn mửa kéo dài.

Du lịch và tiêm chủng trong khi có thai

Gama globulin lưu trữ để ngăn ngừa viêm gan A là an toàn và không mang lại nguy cơ lây truyền HIV. Chloroquin có thể được sử dụng đề phòng bệnh sốt rét trong khi mang thai, và proguanil cũng an toàn.

Dinh dưỡng trong khi có thai

Những chất rỗng calo nên tránh, và chế độ ăn nên chứa những thức ăn sau: thực phẩm protein nguồn gốc động vật và thực vật, sữa và các sản phẩm của sữa

Những vấn đề cơ bản chăm sóc trước đẻ

Chăm sóc trước đẻ nên bắt đầu sớm và duy trì đều đặn trong thời kỳ từ 0 đến 28 tuần thì khám 4 tuần 1 lần, 28 - 36 tuần: 2 tuần một lần; 36 tuần trở đi: khám hàng tuần.

Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt thai nghén

Những biểu hiện thai và triệu chứng sau thường do thai nghén gây ra, nhưng không có dấu hiệu nào dùng để chẩn đoán được, Việc ghi nhận thời gian