Đặc điểm hệ tiêu hoá trẻ em

2014-11-05 02:45 PM

Ở trẻ sơ sinh, thường thấy những hạt màu trắng hoặc vàng nhạt, to gần bằng hạt đỗ xanh, mật độ cứng, nằm dọc hai bên đường giữa vòm miệng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hê tiêu hoá bao gồm: Miệng, thực quản, dạ dày, ruột, gan và tụy.

Miệng và các bộ phân trong khoang miệng

Khoang miệng trẻ sơ sinh tương đối nhỏ vì

Xương hàm trên phát triển kém.

Hòn mỡ Bichat tương đối lớn.

Lợi có nhiều nếp nhăn.

Cơ môi và các cơ nhai phát triển mạnh.

Lưỡi tương đối dày và rộng, có nhiều nang tân và gai lưỡi.

Những yếu tố trên có tác dụng rất lớn đối với động tác bú của trẻ: Khi bú khoang miệng và lưỡi hoạt động như một pít tông.

Niêm mạc miệng mỏng, mềm mại, có nhiều mao mạch, nhưng tương đối khô. Đây là điều kiện tốt cho nấm Candida albicance phát triển (tưa miêng).

Ở trẻ sơ sinh, thường thấy những hạt màu trắng hoặc vàng nhạt, to gần bằng hạt đỗ xanh, mật độ cứng, nằm dọc hai bên đường giữa vòm miệng (hạch Bonneur). Đó là các nang chứa dịch hoặc những tế bào bong ra của tuyến niêm dịch, chúng sẽ tự mất đi trong những tuần đầu.

Tuyến nước bọt

Tuyến nước bọt của trẻ sơ sinh còn ở trạng thái phôi thai và đến tháng thứ 3 - 4 tuyến nước bọt mới phát triển hoàn toàn, do vậy trong mấy tháng đầu sau đẻ, niêm mạc miệng của trẻ thường khô.

Ở trẻ em, nước bọt trung tính hoặc toan tính nhẹ (pH = 6 - 7,8), còn ở người lớn thì pH = 7,4 - 8.

Trong nước bọt có các men tiêu hoá tinh bột: Amylaza, Ptyalin, Mantaza.

Hoạt tính của các men trong nước bọt tăng dần theo tuổi.

Trẻ 4 - 6 tháng có hiện tượng chảy nước bọt sinh lý, do mầm răng kích thích vào dây thần kinh V gây nên phản xạ tăng tiết nước bọt và một ph ần do trẻ chưa biết nuốt nước bọt.

Trẻ sơ sinh chưa có răng. Răng sữa bắt đầu mọc từ tháng thứ 6 và kết thúc vào tháng 24 - 30, khi trẻ mọc đủ 20 răng sữa. Răng vĩnh viễn sẽ bắt đầu mọc khi trẻ lên 6 tuổi và chúng sẽ thay thế dần răng sữa.

Thực quản

Thực quản trẻ sơ sinh có hình phễu.

Thành thực quản của trẻ mỏng.

Niêm mạc thực quản mỏng, có ít tổ chức tuyến, nhiều mạch máu.

Cơ và tổ chức đàn hồi phát triển yếu.

Chiều dài thực quản thay đổi theo tuổi

Trẻ sơ sinh:   10 - 11 cm.

Trẻ 1 tuổi:      12        cm.

Trẻ 5 tuổi:      16        cm.

Trẻ 10 tuổi:    18        cm.

Trẻ 15 tuổi:    20        cm.

Người lớn:    25 - 32 cm.

Để tính khoảng cách từ răng đến tâm vị có thể dựa theo công thức:

     X(cm) = 1/5 chiều cao + 6,3 cm

Đường kính lòng thực quản của trẻ em tăng theo lứa tuổi

Trẻ sơ sinh:               0,7cm.

Trẻ < 2 tháng:           0,8 - 0,9cm.

Trẻ 2 - 6 tháng:         0,9 - 1,2cm.

Trẻ 9 - 18 tháng:       1,2 - 1,5cm.

Trẻ 2 - 12 tuổi:           1,3 - 1,7cm.

Chúng ta cần biết chiều dài và đường kính thực quản theo từng lứa tuổi để chọn các ống thông dạ dày cho thích hợp.

Dạ dày

Dạ dày của trẻ sơ sinh hình tròn, lúc 1 tuổi có hình dài thuôn thuôn và sau 7 tuổi có hình dáng như người lớn.

Dạ dày của trẻ nhỏ nằm cao, nằm ngang. Đến 12 tháng thì dạ dày bắt đầu nằm đứng, sau 7 - 11 tuổi giống người lớn.

Trẻ nhỏ: phần đáy, hang vị và tổ chức tuyến chưa phát triển.

Dung tích dạ dày

Trẻ sơ sinh:   30 - 35ml.

Trẻ 3 tháng: 100ml.

Trẻ 1 tuổi:      250ml.

Cơ dạ dày của trẻ nhỏ phát triển còn yếu, nhất là cơ thắt tâm vị. Còn cơ thắt môn vị thì phát triển tốt và đóng chặt, do đó trẻ rất dễ nôn trớ sau khi ăn.

Độ pH trong dịch vị tuỳ theo lứa tuổi

Thời kỳ bú mẹ: pH: 5,8- 3,8.

Trẻ càng lớn độ toan càng tăng.

Người lớn pH = 1,5 - 2.

Độ toan toàn phần và HCl tự do của trẻ em đều thấp hơn so với người lớn.

Dịch vị của trẻ gồm các men: Pepsin, Labferment, Catepsin, Lipase.

Các men Pepsin, Labferment, Catepsin đều có tác dụng tiêu hoá protid, nhưng Labferment là men có ý nghĩa rất lớn đối với trẻ em vì nó là men hoạt động trong môi trường pH = 6 - 6,5, còn Catepsin thì hoạt động trong môi trường pH = 3,5 - 4, Pepsin (chuyển protid thành pepton) lại hoạt động trong môi trường pH = 1,5 - 2,5. Sự bài tiết các men phụ thuộc nhiều vào tình trạng sức khoẻ của trẻ.

Lipase trong dịch vị cùng với men này của sữa mẹ đã giúp cho việc tiêu hoá mỡ của sữa mẹ có thể thực hiện được một phần ngay từ dạ dày.

Tại dạ dày, 25% sữa mẹ được hấp thu, trong đó có cả protein và lipid. Còn các loại thức ăn khác (kể cả sữa bò) chỉ hấp thu được đường.

Thời gian lưu thức ăn ở dạ dày phụ thuốc vào tính chất thức ăn:

Sữa mẹ lưu ở dạ dày từ 2 - 3 giờ.

Sữa bò lưu ở dạ dày lâu hơn, từ 3 - 4 giờ.

Thức ăn có nhiều mỡ sẽ lưu ở dạ dày lâu hơn nữa.

Do đó các bữa ăn của trẻ nên cách nhau từ 2,5 - 3 giờ.

Ruột

Ruột của trẻ em tương đối dài hơn so với người lớn

Ruột của trẻ em dài gấp 6 lần chiều dài cơ thể, trong khi ruột của người lớn chỉ dài gấp 4 lần.

Ruột của trẻ sẽ dài ra khi bị giảm trương lực cơ và thường gặp trong các bệnh như suy dinh dưỡng, còi xương, ỉa chảy kéo dài.

Niêm mạc ruột có nhiều nếp nhăn, nhiều lông ruột, nhiều mạch máu, do đó dễ hấp thụ, song cũng tạo điều kiện cho vi khuẩn dễ xâm nhập.

Mạc treo ruột dài, manh tràng ngắn dễ di động nên

Dễ bị xoắn ruột.

Vị trí ruột thừa không cố định. ở trẻ dưới 1 tuổi, ruột thừa thường nằm sau manh tràng.

Trực tràng dài, cơ yếu, niêm mạc lỏng lẻo nên dễ bị sa trực tràng khi ho nhiều, rặn nhiều.

Thức ăn được tiêu hoá ở ruột nhờ tác dụng của các men trong dịch ruột, dịch tụy, mật

Tiêu hoá Protein gồm có các men: Trypsin Enterokinaza (hoạt hoá tripsinogen), Erepsin (chuyển pepton thành a.amin)

Tiêu hoá mỡ gồm có men Lipase.

Tiêu hoá Glucid gồm các men:

Mantase (chuyển đường đôi thành 2 đường đơn).

Lactase (chuyển đường trong sữa mẹ thành glucose và lactose).

Invectin (chuyển hoá saccarose thành Glucose và Fructose) và có ít Amylase (phân huỷ tinh bột).

Đặc điểm về vi khuẩn ở đường ruột trẻ em

Giai đoạn vô khuẩn: trong vòng 8 giờ sau đẻ, trong dạ dày và ruột của trẻ em hầu như không có vi khuẩn.

Sau đẻ 8 giờ, vi khuẩn xâm nhập vào ruột qua miệng, hô hấp và trực tràng, do đó mức độ và thành phần vi khuẩn phụ thuộc nhiều vào môi trường. Đó là các vi khuẩn như tụ cầu, phế cầu, liên cầu, cầu khuẩn ruột, trực khuẩn ruột, trực trùng bifidus, trực trùng perfringens, trực trùng acidophilus...

Đến ngày thứ 3 sau đẻ, lượng vi trùng trong ruột tăng rất cao (giai đoạn nhiễm trùng phát triển).

Sau đó chuyển sang một giai đoạn khác phụ thuộc vào chế độ ăn của trẻ:

Trẻ bú mẹ: vi khuẩn Bifidus chiếm ưu thế và ức chế E. Coli.

Trẻ ăn nhân tạo: có nhiều vi khuẩn E.coli.

Vi khuẩn ở ruột có tác dụng tổng hợp các vitamin nhóm B, vitamin K và làm tăng tiêu hoá đạm, mỡ, đường, sinh ra khí sunfua hydro, tạo nên mùi hôi điển hình của phân.

Tụy

Trẻ sơ sinh tuỵ có hình lăng trụ (3 mặt), phần đầu tương đối nhỏ hơn phần thân và đuôi. Khi 5 - 6 tuổi có hình dáng giống như người lớn.

Trọng lượng tụy tăng dần theo tuổi

Trẻ sơ sinh:               2 - 4g.

Trẻ 5-10 tuổi:             30 - 36g.

15 tuổi:                       50g.

Tụy có chức năng nội tiết và ngoại tiết

Chức năng nội tiết: Tụy tiết vào máu insulin, tham gia vào quá trình vận chuyển Glucose từ máu vào trong tế bào.

Chức năng ngoại tiết: Tụy tiết vào ruột các men Tripsin (chuyển hoá đạm) hoạt động trong môi trường pH = 8, Lipase (chuyển hoá mỡ) và các men chuyển hoá tinh bột như Amylase, Maltase.

Gan

Gan của trẻ sơ sinh tương đối to, chiếm 4,4% trọng lượng cơ thể, trong khi gan của người lớn chỉ chiếm 2,4 - 2,8%.

Trẻ sơ sinh: Thuỳ trái của gan to hơn thuỳ phải, sau này thuỳ phải phát triển nhanh hơn, nên sẽ to hơn.

Gan trẻ nhỏ dễ di động, do đó dễ bị xê dịch khi có nước ở màng phổi hoặc có khối u đẩy.

Tổ chức gan có nhiều mạch máu, tế bào phát triển chưa đầy đủ, còn nhiều hốc sinh sản máu.

Chức năng gan ở trẻ nhỏ chưa hoàn thiện, dễ có phản ứng khi trẻ bị nhiễm trùng, nhiễm độc và dễ bị thoái hoá mỡ.

Phân của trẻ em

Phân su

Phân su là một chất màu xanh thâm, không mùi, có từ tháng thứ 4 trong bào thai.

Được trẻ đi ỉa ra trong ngày đầu sau đẻ.

Nó gồm những chất tiết của ống tiêu hoá (các tế bào thượng bì, bilirubin, cholesterol, những giọt mỡ, axit béo, những phần tử của vernix caseosa, xà phòng vôi, lông tơ, không có vi khuẩn).

Phân của trẻ bú mẹ

Có màu vàng ánh (do bilirubin chứ không phải là stercobilin như ở người lớn), sền sệt, mùi chua và có phản ứng toan.

Số lượng phân chiếm khoảng 1 - 3% lượng sữa bú vào: 25g/ngày.

Số lần ỉa trong một ngày

Trong tuần đầu sau đẻ:      4 - 5 lần.

Trẻ dưới 1 tháng tuổi:        2 - 3 lần.

Trẻ trên 1 tháng tuổi:          1 - 2 lần.

Trẻ trên 1 tuổi:                      1 lần

Phân của trẻ ăn sữa bò

Có màu vàng nhạt (do bilirubin bị oxy hoá), đặc, dẻo, có mùi nặng hơn phân của trẻ bú mẹ và có phản ứng trung tính.

Số lượng phân nhiều hơn so với trẻ bú mẹ, tới 100g /ngày.

Số lần đi ỉa trong một ngày ít hơn trẻ bú mẹ.

Bài viết cùng chuyên mục

Sử dụng thuốc trong nhi khoa

Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, cần nắm rõ đặc điêm sinh lý, giải phẩu và tình trạng bệnh lý của trẻ. Chức năng gan, thận của trẻ chưa hoàn thiện => Khả năng chuyển hóa, tích lũy, đào thải kém-> dễ ngộ độc thuốc.

Xuất huyết não màng não sớm ở trẻ em

Xuất huyết não màng não sớm xảy ra ở trẻ dưới 15 ngày tuổi, Nguy cơ mắc bệnh càng cao nếu càng non tháng

Bệnh học đau bụng ở trẻ em

Có thể phát hiện dấu hiệu viêm hạch mạc treo, búi lồng, hay hình ảnh ruột thừa viêm hay dịch tự do hay khu trú trong ổ bụng hay hình ảnh giun ở đường mật, đường tụy..

Hội chứng thận hư tiên phát ở trẻ em

Hội chứng thận hư tiên phát trẻ em là một tập hợp triệu chứng thể hiện bệnh lý cầu thận mà nguyên nhân phần lớn là vô căn 90% dù khái niệm thận hư đã được Müller Frie rich Von nói đến.

Viêm bàng quang chảy máu ở trẻ em

Nguyên nhân chủ yếu là do virut, biến chứng của việc dùng các thuốc ức chế miễn dịch, ghép tuỷ, hãn hữu do một số loại vi khuẩn như liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn.

Xuất huyết não màng não ở trẻ lớn

Xuất huyết não ở trẻ lớn đa số do dị dạng thành mạch bẩm sinh, vỡ phình mạch gặp nhiều hơn vỡ các dị dạng thông động tĩnh mạch. Bệnh xảy ra đột ngột: Đau đầu dữ dội, rối loạn ý thức, hôn mê, liệt nửa người.

Bệnh học hội chứng cầu thận cấp ở trẻ em

Viêm cầu thận cấp không chỉ là một bệnh thông thường mà là một hội chứng gọi là Hội chứng cầu thận cấp. Bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng, nguyên nhân phát sinh không chỉ do liên cầu mà còn do Tụ cầu, Phế cầu, Vi rút.

Rối loạn lo âu ở trẻ em

Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ, vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống.

U tuỷ thượng thận ở trẻ em

U tuỷ thượng thận là u tiết ra Catecholamine quá thừa từ u vùng tuỷ thượng thận sinh ra. Nhưng cũng có thể phát sinh từ nhiều nơi khác thuộc hệ thống giao cảm của chuỗi hạch giao cảm.

Sự phát triển về thể chất của trẻ em

Để đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em, có thể dựa vào việc theo dõi sự phát triển về cân nặng, chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay, vòng đùi và tỷ lệ giữa các phần của cơ thể​.

Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng

Da khô, trên da có thể xuất hiên các mảng sắc tố ở bẹn, đùi: lúc đầu là những chấm đỏ rải rác, lan to dần rồi tụ lại thành những đám màu nâu sẫm, sau vài ngày bong ra.

Viêm mủ màng tim ở trẻ em

Viêm mủ màng ngoài tim nhanh chóng dẫn đến ép tim và tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm

Chăm sóc trẻ bị viêm phổi nặng

Viêm phổi là bệnh thường gặp ở trẻ em và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ dưới một tuổi, trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng.

Bệnh học hen ở trẻ em

Một số virus ái hô hấp như RSV hoặc parainfluenza virus cũng có thể gây hen thông qua sự tăng sản xuất IgE đặc hiệu đối với virus đó hoặc kích thích thụ thể phản xạ trục.

Chăm sóc trẻ bị bệnh tiêu chảy cấp

Virus là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tiêu chảy cho trẻ em. Những loại virus gây tiêu chảy là Rotavirus, Adenovirus, Norwalk virus, trong đó Rotavirus là tác nhân chính gây bệnh.

Bệnh học nhi khoa bệnh sởi

Hàng năm toàn thế giới có khoảng 50 triệu trẻ bị sởi, trong đó ước tính khoảng 722.000 trẻ nhở hơn 5 tuổi tử vong do các biến chứng từ sởi và 40% tử vong do suy dinh dưỡng.

Co giật ở trẻ em

Co giật là tình trạng rối loạn tạm thời về ý thức, vận động, cảm giác, thần kinh tự động do sự phóng điện đột ngột quá mức nhất thời của một số neuron thần kinh.

Viêm tai giữa cấp ở trẻ em

Trong viêm tai giữa cấp ở trẻ em, viêm tai giữa tiết dịch kéo dài nếu không điều trị đúng sẽ gây các di chứng nặng nề trên tai giữa và làm suy giảm chức năng nghe.

Chẩn đoán và xử trí hôn mê ở trẻ em

Hôn mê là một tình trạng trong đó người bệnh không có thể mở mắt, không thể thực hiện các động tác theo mệnh lệnh, cũng không nói thành lời được.

Sốt cao gây co giật ở trẻ em

Co giật do sốt xảy ra khoảng 3% trẻ em. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi sơ sinh và trẻ nhỏ, từ 3 tháng đến 5 tuổi. Bệnh liên quan đến sốt nhưng không có bằng chứng của nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.

Đặc điểm hệ tuần hoàn trẻ em

Tim của trẻ sơ sinh tương đối to hơn so với trẻ lớn và chiếm 0,8% trọng lượng cơ thể. Sau 1 tuổi, sự phát triển của tim tỷ lê thuận với sự phát triển về chiều cao, cân nặng của trẻ và chiếm 0,5% trọng lượng cơ thể.

Bệnh học viêm cầu thận mạn ở trẻ (Nephrite Chronique)

Nồng độ Ure máu có giá trị tiên lượng: 2-3g/lit thường chết trong vài tuần hoặc tháng. 1-2g/lit cầm cự không ngoài một năm. 0,5-1g/lit sống được lâu hơn.

Thiếu máu tan máu tự miễn ở trẻ em

Bệnh thường xảy ra phối hợp với một số bệnh nhiễm khuẩn như viêm gan, viêm phổi do vius, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, hoặc trên cơ sở bị một số bệnh như U lympho Hodgkin, Lupus ban đỏ, hội chứng suy giảm miễn dịch.

Bệnh học ho gà

Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất, chiếm 20 phần trăm, thường xảy ra vào tuần thứ 2, thứ 3 của giai đoạn ho cơn. Tác nhân có thể do chính bản thân B. pertussis.

Viêm khớp mủ ở trẻ em

Viêm mủ khớp là hậu quả của viêm xương tuỷ xương mà vùng hành xương nằm trong bao khớp hoặc có thể ổ viêm xương phá vỡ tổ chức khớp đưa mủ vào trong khớp.