- Trang chủ
- Sách y học
- Triệu chứng học nội khoa
- Triệu chứng học tuyến giáp
Triệu chứng học tuyến giáp
Tuyến giáp trạng là một tuyến đơn, nằm sát khí quản, nặng chứng 30, 35g. tuyến có hai thuỳ hai bên, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2 cm, nối với nhau bằng một eo giáp trạng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tuyến giáp trạng là một tuyến nằm nóng nhất trong tuyến nội tiết. Đó là thuận lợi khi khám lâm sàng.
Giải phẫu và sinh lý tuyến giáp trạng
Giải phẫu
Tuyến giáp trạng là một tuyến đơn, nằm sát khí quản, nặng chứng 30 - 35g. tuyến có hai thuỳ hai bên, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2 cm, nối với nhau bằng một eo giáp trạng. Eo giáp trạng này hình bán nguyệt, áp sát vào mặt trước của vòng thứ 2, 3, 4 của khí quản.
Bình thường tuyến giáp bị cơ ức, đòn, chũm che lấp, không sờ thấy được. Nhưng vì ở nông nên khi hơi to đã có thể sờ và nhìn thấy được.
Mạch máu nuôi dưỡng tuyến gồm hai động mạch giáp trên và hai động mạch giáp dưới. Những động mạch này tạo ra xung quanh tuyến một màng lưới mạch máu khá dày. Trong bệnh Basedow hệ thống mạch này căng đầy máu nên có thể sờ thấy rung miu và nghe thấy tiếng thổi tâm thu hoặc tiếng thổi liên tục khi đặt ống nghe vào vùng động mạch tuyến.
Sinh lý
Là một tuyến nội tiết, tiết chủ yếu ra thyroxin (tetraiodotyrisin và triiod tyrosin), Hocmon này có hai tác dụng:
Kích thích sự phát triễn tế bào và tổ chức tế bào, tác dụng này đặc biệt quan trọng trên sự phát triển chung của toàn cơ thể.
Tác dụng chuyển hoá ở khắp các bộ phận.
Biết sơ bộ về giải phẫu và sinh lý bệnh tuyến giáp trạng, sẽ giúp ta khám lâm sàng và cận lâm sàng tuyến.
Các phương pháp khám lâm sàng tuyến giáp
Nhìn
Bình thường không nhìn thấy tuyến giáp. Nhưng khi tuyến to lên có thể nhìn thấy và khi người bệnh nuốt có thể thấy di động theo nhịp nuốt.
Nhìn có thể đánh giá sơ bộ về hình thể, kích thước, loại to toàn bộ hay một phần…. Để bổ sung cho phương pháp này, phải sờ và đo tuyến.
Sờ và đo tuyến giáp
Là một bước quan trọng và cần thiết, giúp ta xác định các loại tuyến. Người bệnh ngồi, tư thế thoải mái, ở nơi đủ ánh sáng. Đầu hơi nghiêng ra trước để làm chùng cơ phía trước giáp trạng. Hơi nâng cằm để mở rộng vùng giáp trạng cho dễ sờ.
Ngón trỏ và ngón cái đè vào giữa thanh quản và cơ - ức - chũm, sau đó bảo người bệnh nuốt, sẽ thấy tuyến di động theo nhịp nuốt và đẩy ngón tay theo
Hoặc dùng hai tay, một tay để ở thanh quản, một tay ở ngoài cơ - ức - đòn chũm, tay ngoài đẩy vào, tay trong sờ nắn từng thuz của tuyến.
Khi sờ nằn có thể xác định:
Thể tích và giới hạn của tuyến.
Mật độ tuyến cứng hay mềm.
Mặt tuyến nhẵn hay gồ ghề
Tuyến to toàn bộ, một phần hay nhiều nhân.
Nếu là một bướu mạch (goitre vasculaire) khi sờ có thể thấy rung miu tâm thu hay liên tục.
Để theo dõi sự tiến triển của tuyến, người ta thường đo tuyến giáp trạng. Dùng một thước dây đo vòng qua chỗ to nhất của tuyến, ta đo khoảng nửa tháng hoặc một tháng đo lại một lần để biết tuyến to hay nhỏ đi một cách chính xác.
Nghe
Chỉ trong trường hợp bướu mạch, nghe mới có thể thấy tiếng thổi tâm thu hay tiếng thổi liên tục. Tiếng thổi nghe thấy rõ ở thuỳ trên phải và trái, là nơi mạch máu to đi vào tuyến. Khi nằm tiếng thổi nghe rõ hơn khi ngồi
Như Hocmon của các tuyến nội tiết khác, hocmon tuyến giáp trạng có ảnh hưởng đến toàn thân người. Vì vậy, sau khi khám tuyến, chúng ta phải khám các biến đổi về toàn thân do rối loạn hocmon tuyến giáp trạng gây ra.
Hội chứng lâm sàng
Hội chứng suy giáp trạng - Bệnh phù niêm
Suy giáp trạng là một bệnh nội tiết ít gặp thường thấy ở trẻ em hơn người lớn.
Bệnh suy giáp trạng có thể do thiểu năng tuyến giáp trạng bẩm sinh hoặc sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến, sau khi dùng kéo dài thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, hoặc sau khi tuyến giáp trạng bị nhiểm độc hay nhiễm khuẩn, sau điều trị bằng I131.
Sự thâm nhiễm nhầy ở các tổ chức.
Ở da:
Da có màu vàng sáp, khô, tuyến bã và tuyến mồ hôi teo đi, móng tay, móng chân có ngấn dễ gãy.
Mặt người bệnh béo tròn như mặt trăng mắt híp lại môi dầy xụ, môi dưới trễ xuống.
Ngón tay, ngón chân mập mạp.
Hệ thống lông thưa thớt và rụng dần. Người bệnh ở trong tình trạng phù mà không có dấu hiệu lõm lọ mực.
Ở niêm mạc:
Lưỡi dầy xụ, cử động khó khăn.
Họng có khi bị phù, làm người bệnh khó nuốt, nói khàn.
Niêm mạc nhạt màu.
Ở nội tạng:
Có thể gây tràn dịch nhiều bộ phận, thông thường nhất là tràn dịch màng tim loại nước vàng chanh, protein 30 - 40%.
Các bộ phận chậm phát triển.
Rối loạn thần kinh và trí tuệ:
Lười bệnh chậm chạp, buồn ngủ, có khi ban ngày buồn ngủ, đêm lại không ngủ được.
Lười suy nghĩ, suy nghĩ chậm.
Trí nhớ kém.
Nói ít, nói tiếng một, cận kệ không hoàn chỉnh.
Rối loạn về sinh dục:
Đàn ông: Tinh hoàn và dương vật bị teo.
Đàn bà: Thường bị tắt kinh, tử cung, buồng trứng bị teo lại.
Biếng ăn, sợ thịt và mỡ.
Táo bón thường xuyên.
Rối loạn tim mạch.
Tim mạch đập chậm và yếu.
Huyết áp hạ.
Tim có khi to toàn bộ.
Trên đây là bệnh phù niêm, suy giáp trạng điển hình, nhưng nhiều khi suy ở mức độ nhẹ, trên lâm sàng chỉ có một vài dấu hiện không điển hình như a khô, táo bón, mạch chậm, tinh thần chậm chạp..
Hội chứng cường giáp - Bệnh Basedow
Trong thể điển hình, các triệu chứng giáp trạng phối hợp hai loại:
Triệu chứng cường giáp trạng
Nhịp tim nhanh: Là triệu chứng trung thành nhất, bao giờ cũng có. Thường là nhịp xoang nhanh từ 90-140 /phút, đều và liên tục. Đôi khi có ngoại tâm thu và loạn nhịp hoàn toàn.
Bướu giáp trạng: Bướu thường nhỏ. Đây là bướu mạch, sờ đôi khi thấy rung miu tâm thu hoặc liên tục. Bướu bao giờ cũng di động theo nhịp nuốt, không đau, hơi căng. Bướu thường to lên trong các đợt tiến triển. Cũng có khi bướu có một hay nhiều nhân. Rất ít khi không sờ thấy bướu, có thể do bướu, phát triển vào sâu trong lồng ngực nên không sờ thấy.
Nghe bướu có thể thấy tiếng thổi tâm thu hay tiếng thổi liên tục.
Gầy, sút nhanh: Gầy nhanh, và gầy toàn thể, nhất là trong các đợt tiến triển, mặc ù người bệnh ăn rất nhiều. Vì vậy phải thường xuyên theo dõi cân nặng người bệnh.
Triệu chứng rối loạn hạ khâu não – yên
Mắt lồi: Thường lồi cả hai bên. Có khi lồi to làm mắt không nhắm kín được. Mắt sáng long lanh, mi mắt thường co giật, người bệnh không làm được động tác hội tụ hai nhãn cầu.
Đáy mắt và nhãn áp bình thường. thị lực có khi hơi k m, làm người bệnh nhìn mờ dần.
Run tay: Run ở đầu ngón tay và bàn tay, run đều, biên độ nhỏ, run tăng lên khi bị xúc động hay lo sợ.
Có khi nhìn ngoài đã thấy tay run rõ rệt, nhưng cũng có khi bảo người bệnh duỗi thẳng tay, để tờ giấy lên mu bàn tay, thấy tờ giấy rung động nhiều do run tay.
Các phương pháp thăm dò cận lâm sàng
Thăm dò hình thái
Soi và chụp tuyến giáp: Cần thiết trong chẩn đoán loại bướu giáp trạng ngầm (goitre plogenant); khi soi Xquang tuyến giáp, kết hợp cho uống Baryt có thể thấy thực quản bị đẩy ra sau do tuyến to đè vào thực quản.
Trong những bướu mạch ngầm, không sờ thấy tuyến giáp, khi chụp có thể thấy hình tuyến.
Phóng xạ đồ: Cho người bệnh uống 10- 22 microcuries I131, 24 giờ sau chụp tuyến cận giáp trạng, lúc này I131 đã tập trung nhiều ở tuyến. Vì thế khi đo hoặc ghi phóng xạ đồ (scintillogramme) có thể biết:
Sự giữ Iot của tuyến nhiều hay ít (cường thì giữ nhiều, suy thì giữ ít, đo bằng máy đếm phóng xạ).
Sự phân bố iot của tuyến, nơi nào có nhân, nóng, chỗ ấy giữ nhiều iot hơn. Các nhân này nhiều khi nằm sâu không phát hiện ra.
Biết rõ số lượng, hình thể, kích thước các nhân đó, giúp ta trong việc phẫu thuật tuyến.
Cho biết phần sót lại sau khi phẫu thuật tuyến, vì còn lại quá nhỏ, lâm sàng không phát hiện được.
Thăm dò chức năng
Đo chuyển hoá cơ bản
Bình thường từ: - 10% + 10%.
Tăng trong cường giáp trạng: +20%.
Hạ trong suy giáp trạng: < -10%
Định lượng Cholesteron máu
Bình thường: 1,8g - 2,3g%.
Giảm trong cường giáp trạng.
Tăng trong suy giáp trạng.
Định lượng glucoza máu
Bình thường: 0,8 - 1,2g%.
Tăng trong cường giáp trạng.
Giảm trong suy giáp trạng - Nghiệm pháp tăng đường huyết bằng đường uống Glucoza có thể rối loạn kiểu đái đường.
Định lượng iot huyết tương
Bình thường: 6 - 8mg%.
Cường giáp trạng, tăng từ 12 - 50mg%.
Suy giáp trạng hạ dưới 3,5 mg%.
Iot phóng xạ
Xét nghiệm quan trọng và chính xác nhất, là nghiên cứu khả năng giữ I131 của tuyến giáp trạng. I131, ngoài tia b hoàn toàn bị hấp thụ bởi các mô, phần lớn các tia phóng xạ có thể đếm được bằng máy đếm Geiger - Muller.
Một tháng trước khi làm nghiệm pháp, người bệnh không được dùng thuốc kháng giáp trạng hay bất cứ một loại thuốc nào có iot (lugot), diiodotyrosin, cả iot dùng chụp Xquang như lipio ol…Cho người bệnh uống khoảng 100 Micro-curies I131 dưới dạng Natri Iodua pha loãng với nước, uống sáng sớm, lúc đói. Sau đó uống tiếp 25ml dung dịch sinh lý để kéo iot còn dính lại ở niêm mạc mồm và thực quản.
Bình thường: đường biểu diễn dự giữ iot tăng cao nhất ở giờ thứ 6 - 8 rồi hạ thấp dần ở giờ thứ 24.
Giờ thứ 2 giữ khoảng 8%.
Giờ thứ 4 giử khoảng 12%.
Giờ thứ 6 giữ khoảng 30%.
Giờ thứ 24 giữ khoảng 38%
Trong cường giáp trạng iot được giữ nhiều.
Giờ thứ 6: giữ trên 50%
Giờ thứ 24 giảm xuống thấp.
Trong suy giáp trạng: Giờ thứ 6 giữ dưới 20%; giờ thứ 24 gần như không còn mấy; Nếu đồng thời định lượng iot thải ra trong nước tiểu, sẽ thấy:
Bình thường sau 24 giờ, 60% iot được thải ra.
Cường giáp trạng: loại ra chừng 15 -20%.
Suy giáp trạng loại ra 90%.
Nói chung trong cường giáp trạng, ở giờ thứ 2 và thứ 4 rất nhiều iot đến giờ 24 giảm thấp so với lúc đầu.
Trong suy giáp trạng, sự thu nạp iot từ giờ thư 2 đến giờ thứ 24 đều rất thấp.
Chẩn đoán
Chẩn đoán bướu giáp trạng
Nếu thấy một khối u nằm ờ vùng giáp trạng di động theo nhịp nuốt thì có thể gần chắc chắn là một bướu giáp trạng nhưng cần phân biệt với:
Hạch ở cổ: Hạch nằm sát dưới da, giới hạn tương đối rõ rệt, mật độ thường chắc hơn tuyến giáp trạng và không di động theo nhịp nuốt.
Mô mỡ dưới da: Nhiều khi không giống như bướu giáp trạng. Nhưng rất mềm, không giới hạn rõ rệt và không di động theo nhịp nuốt.
Nếu chẩn đoán xác định một bướu giáp trạng tương đối dễ thì việc chẩn đoán nguyên nhân nhiều khi khó và phức tạp hơn.
Chẩn đoán nguyên nhân
Cường giáp trạng Basedow.
Suy giáp trạng: Phù niêm (Myxoedème).
Bướu giáp trạng đơn thuần: Là loại u giáp trạng lành tính, do quá sản tổ chức tuyến, bệnh o hai trường hợp gây nên:
Do thiếu iot tương đối so với so với yêu cầu tăng lên của cơ thể: Bướu ở tuổi dậy thì (goitre pulertaire), bướu trong thời kỳ thai nghén hoặc cho con bú.
Do thiếu iot thường xuyên: Đây là loại bướu giáp trạng địa phương (goitre en mique), thường gặp ở một số dân miền núi. ở đó nước ăn nghèo iot hoặc các chất làm rối loạn chuyển hoá iot.
Viêm giáp trạng
Viêm cấp và bán cấp: Bướu sưng to đau, có triệu chứng nhiềm khuẩn kèm theo. Thường khỏi tự nhiên sau vài ngày đến vài tuần, hoặc sau điều trị Cocticoit và kháng sinh.
Viêm mạn tính không đặc hiệu:
Bệnh Hashimoto: Viêm giáp trạng thâm nhập limpho. Bướu to vừa lan toả, lúc đầu mềm mềm hơi chắc (như cao su). Về giải phẫu bệnh học: nhiều tế bào limphô xâm nhập trong tuyến. Không bao giờ khỏi tự nhiên.
Bệnh Riedel: Vì giáp trạng mộc hoá. Tuyến giáp trạng bị xâm nhập bởi tế bào nan hoa (plasmocyte) và tế bào limphô, xơ hoá nhiều hơn, làm chức năng tuyến giảm nhiều. Bướu to, có nhân, cứng như gỗ. Thường gây triệu chứng như chèp ép khí phế quản, có khi chẩn đoán nhầm ung thư.
Bài viết cùng chuyên mục
Mạch động mạch so le: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Có rất ít nghiên cứu hướng dẫn đầy đủ về giá trị của dấu hiệu mạch so le. Tuy nhiên, có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, nếu hiện diện, mạch so le có liên quan đến rối loạn chức năng thất trái.
Nhịp tim chậm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Có quá nhiều nguyên nhân có khả năng gây chậm nhịp nên độ đặc hiệu của dấu hiệu cho một bệnh thì thấp. Nếu được thấy ở một bệnh nhân đáng lẽ có nhịp tim bình thường, thì thường có khả năng là dấu hiệu của bệnh tiềm ẩn rất nặng.
Nghiệm pháp Hawkins: tại sao và cơ chế hình thành
Hawkins có giá trị chẩn đoán giới hạn. Nó có độ đặc hiệu thấp và chỉ có độ nhạy vừa phải và chỉ có thể có giá trị nếu cơn đau theo nghiệm pháp là nghiêm trọng.
Hội chứng hạ Glucose (đường) máu
Người ta nhận thấy nói chung glucoza máu từ 60mg%, trở xuống chắc chắn có triệu chứng, glucoza máu càng hạ, triệu chứng càng nặng. Nhưng không nhất thiết có sự hạ glucoza máu và sự nặng nhẹ của các biểu hiện lâm sàng.
Nhịp đập mỏm tim: bình thường và tăng gánh thể tích
Sờ vùng trước tim, mỏm tim đập lan tỏa (nghĩa là diện đập >3 cm2), một nhát biên độ lớn đập vào tay và biến mất nhanh chóng.
Xanh tím và xanh tím ngoại biên: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Tím ngoại biên gây ra bởi dòng máu chảy chậm và tăng tách lấy oxy ở các chi. Khi cơ thể người tiếp xúc với lạnh, co mạch ngoại biên xảy ra để duy trì sự ấm áp.
Khám dinh dưỡng và cơ tròn
Các bệnh về thần kinh có thể gây rất nhiều rối loạn dinh dưỡng khác nhau ở da, xương, khớp, cơ, Trong nhiều trường hợp các rối loạn đó có giá trị chẩn đoán quyết định.
Tiếng tim tách đôi: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Tiếng tim tách đôi thường là tiếng T2 (tiếng đóng của van phổi và van chủ). Các loại tách đôi khác nhau do các nguyên nhân sinh lý và bệnh học khác nhau.
Các tiếng bệnh lý khi nghe phổi
Bình thường khi hô hấp ta chỉ nghe tiếng thở thanh khí quản và tiếng rì rào phế nang, Trong nhiều trường hợp bệnh lý, những thay đổi về cơ thể bệnh ở khí đạo.
Đốm Roth: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra đốm roth như đã nói và nó chỉ có thể được tìm thấy ở <5% bệnh nhân có viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, nên giá trị độc lập với các triệu chứng lâm sàng khác của nó bị hạn chế.
Tiếng thổi tâm thu: thông liên thất
Sự chênh lệch về áp lực qua lỗ thông và dòng chảy rối là các yếu tố chính trong cơ chế. Tâm thất trái có áp lực cao hơn tâm thất phải. Lỗ thông cho phép máu đi từ nơi có áp lực cao sang nơi có áp lực thấp ở thất phải.
Thở khò khè: nguyên nhân và cơ chế hình thành
Khi lòng ống dẫn khí bị thu hẹp nhỏ hơn, vận tốc dòng khí tăng, dẫn đến sự rung động của thành đường dẫn khí và tạo ra âm thanh đặc trưng.
Tiếng click giữa tâm thu: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Trong sa van hai lá, các lá van, đặc biệt là lá trước, bật ngược vào trong tâm nhĩ ở kì tâm thu. Tiếng click giữa tâm thu xảy ra khi lá trước của van hai lá bật ngược vào trong tâm nhĩ, tạo ra sức căng trên các thừng gân.
Khám 12 dây thần kinh sọ não
Rối loạn về ngửi có thể do nguyên nhân địa phương viêm mạn tính niêm mạc mũi, thịt thừa, polypes nasaux), vì thế, trước khi kết luận rối loạn ngửi do thần kinh.
Biến đổi hình thái sóng: mất sóng x xuống
Bình thường, sóng x-xuống gây ra bởi đáy của tâm nhĩ di chuyển xuống dưới ra trước trong kì tâm thu. Trong hở van ba lá, thể tích máu trào ngược bù trừ cho sự giảm áp xuất bình thường gây ra bởi tâm thu thất.
Rối loạn chuyển hóa Kali
Rối loạn tuần hoàn: hạ huyết áp tư thế đứng hoặc trạng thái tăng huyết áp không ổn định, ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất, nhịp xoắn đỉnh, rung thất.
Hội chứng tăng Ni tơ máu
Nitơ trong huyết tương là do các nguồn protit sinh ra, các nguồn đó do từ ngoài vào (ăn, uống, tiêm thuốc…) và do sự huỷ hoại các tổ chức trong cơ thể, rồi qua gan tổng hợp thành urê.
Hội chứng rối loạn cảm giác
Nơron cảm giác ngoại vi nằm ở hạch gai gian đốt sống, sợi trục của nó tạo thành những sợi cảm giác của dây thần kinh ngoại vi, nhận cảm giác dẫn truyền vào rễ sau.
Run tay parkinson: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Cơ chế run parkinson chưa rõ. Các kích thích có tính đồng bộ và nhịp điệu của các neuron trong nhân dưới đồi và nhân cầu nhạt trong có sự liên hệ với chứng run của bệnh nhân Parkinson và của những con khỉ được dùng MPTP.
Tiếng tim thứ ba: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Một sự hạn chế đổ đầy thất trái đột ngột đầu thì tâm trương gây rung động thành tim và máu trong tim, sẽ tạo ra tiếng T3. Một cách điển hình, tiếng T3 được thấy ở bệnh nhân có tăng đổ đầy, tăng thể tích và thất trái xơ cứng, kém đàn hồi.
Liệt vận nhãn liên nhân (INO): dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Trong một nghiên cứu trên các bệnh nhân liệt vận nhãn liên nhân cả hai bên, xơ cứng rải rác chiếm 97%. Nguyên nhân thường gặp nhất gây liệt vận nhãn liên nhân một bên là thiếu máu hệ mạch đốt sống thân nền.
Hội chứng Porphyrin niệu
Sự thiếu hụt một trong những men trên sẽ dẫn đến porphyrin niệu, bệnh có tính chất di truyền, thường hay thiếu men proto-oxidase.
Teo cơ do đái tháo đường: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy quá trình xâm nhập của viêm, globulin miễn dịch và bổ thể và các mạch máu nhỏ, gợi ý rằng viêm mao mạch qua trung gian miễn dịch có thể là nguyên nhân.
Bệnh võng mạc do tăng huyết áp và vi phình mạch
Chấm đỏ sậm, tròn, nhỏ trên bề mặt võng mạc mà nhỏ hơn đường kính tĩnh mạch thị chính. Chúng thường báo trước diễn tiến đến pha xuất tiết của bệnh võng mạc tăng huyết áp.
Bệnh võng mạc do tăng huyết áp và bắt chéo động tĩnh mạch
Một tiểu động mạch võng mạc dãn lớn bắt chéo một tĩnh mạch và có thể đè xẹp nó và gây phù nề đoạn xa chỗ bắt chéo. Tĩnh mạch sẽ có dạng đồng hồ cát ở mỗi bên chỗ bắt chéo.
