Thực hành chẩn đoán và điều trị viêm gan C

2012-11-13 08:27 PM

Thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 7 – 8 tuần sau khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Sau đó, khoảng 30% số người bị nhiễm HCV có thể cảm thấy hơi khó chịu như bị cảm cúm nhẹ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm gan C là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất, vẫn được xem là một hiểm hoạ cho toàn nhân loại. Hiện có khoảng hơn 3% dân số thế giới mắc bệnh viêm gan C, với chừng 170 triệu người mang virus gây viêm gan C (Hepatitis C virus – HCV) trong cơ thể.

Hơn 85% người nhiễm HCV có nguy cơ mang virus lâu dài, so với HBV thì tỷ lệ này chỉ có khoảng 10%. Trong số người bị nhiễm HCV, 60% có nguy cơ bị viêm gan mạn tính, với mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều so với viêm gan B mạn tính, bởi vì có đến 12% bệnh nhân có nguy cơ bị xơ gan và từ 1 đến 5% sẽ bị ung thư gan. Hơn thế nữa, hiện nay chưa có thuốc chủng ngừa viêm gan C.

Tại Hoa Kỳ, hiện có hơn 4 triệu người đang bị viêm gan C mạn tính, và ước tính sẽ có từ 8.000 đến 10.000 trường hợp tử vong mỗi năm vì căn bệnh này.

Mặc dù rất nguy hiểm như thế, nhưng hầu hết các trường hợp viêm gan C cấp tính cũng như mạn tính đều không biểu hiện triệu chứng gì đáng kể. Một trong những triệu chứng thường gặp nhất là người mắc bệnh cảm thấy mệt mỏi – nhưng đây lại có thể là triệu chứng của quá nhiều bệnh khác và thậm chí còn là một trạng thái thường gặp ngay cả khi không có bệnh. Vì thế, số người mắc bệnh được phát hiện kịp thời rất ít. Vào năm 1995, người ta công bố một kết quả xét nghiệm khoảng hơn nửa triệu người được xác định là mang virus viêm gan C ở Pháp. Trong đó chỉ có hơn 15% là đã biết được mình bị nhiễm HCV – số còn lại hoàn toàn không hay biết gì cả!

Nguyên nhân

Bệnh viêm gan C gây ra do một loại virus thuộc loại ARN có khả năng thay đổi đặc tính di truyền một cách hết sức nhanh chóng và dễ dàng. Tuy đã gây bệnh từ lâu, nhưng phải đến khoảng đầu năm 1974 thì virus gây bệnh viêm gan C mới được nhận dạng một cách không rõ ràng, và được gọi là “virus gây viêm gan không A, không B” (non-A, non-B hepatitis). Chỉ đến khi phát triển được kỹ thuật nghiên cứu các phân tử cực kỳ nhỏ bé (molecular biologic techniques), các nhà khoa học mới quan sát rõ được loại virus gây bệnh này và chính thức gọi tên nó là virus viêm gan C (Hepatitis C virus– HCV).

Virus viêm gan C lây lan chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp bằng đường máu. Bệnh không lây lan qua thức ăn, nước uống hoặc các yếu tố môi trường khác, cho dù trong nước bọt và mồ hôi của người bệnh có chứa một ít HCV. Các nghiên cứu cũng xác định rõ là trong tinh dịch cũng như dịch tiết từ âm đạo đều không có chứa HCV. Tuy nhiên, trong thực tế có khoảng 5% trường hợp nhiễm HCV do lây lan qua hoạt động tình dục. Điều này được giải thích là do các yếu tố như: phụ nữ đang có kinh nguyệt hoặc viêm nhiễm ở bộ phận sinh dục, hoặc do các sây sát có chảy máu xảy ra trong hoạt động tình dục. Những trường hợp hoàn toàn bình thường mà lây lan do hoạt động tình dục chưa được chứng minh.

Hai con đường lây lan chính của HCV là qua truyền máu và qua việc sử dụng chung các dụng cụ tiêm chích không tiệt trùng. Tuy nhiên, những trường hợp tiếp xúc khác với virus vào lúc cơ thể đang có các vết trầy xước cũng đều có thể dẫn đến nhiễm bệnh. Trong thực tế có đến 30% bệnh nhân hoàn toàn không xác định được mình đã bị lây nhiễm từ đâu, chính là rơi vào các trường hợp này.

Một số nguyên nhân cụ thể khác là những trường hợp tiếp xúc trực tiếp với máu của bệnh nhân, như các nhân viên y tế, hoặc qua các dịch vụ công cộng không đảm bảo vô trùng như cạo mặt, xăm mình, châm cứu, cạo gió, cắt lể... Ngay trong các bệnh viện, sơ sót trong việc tiệt trùng các dụng cụ y khoa cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến lây nhiễm HCV. Bệnh cũng lây lan trực tiếp từ người mẹ khi sinh con ra, nhưng với một tỷ lệ tương đối thấp, khoảng hơn 5%.

Bệnh không lây truyền qua sữa mẹ, nên người mẹ không cần tránh việc cho con bú.

Chẩn đoán

Thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 7 – 8 tuần sau khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Sau đó, khoảng 30% số người bị nhiễm HCV có thể cảm thấy hơi khó chịu như bị cảm cúm nhẹ.

Một số người khác có thể có các triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi, đau nhức khớp xương và bắp thịt. Nhiều khi có thể cảm thấy buồn nôn, khó chịu, đau bụng, tiêu chảy, ăn kém ngon, giảm trọng lượng cơ thể... Đôi khi bị sốt hoặc nổi ngứa ngoài da. Khoảng 30% số người nhiễm HCV có thể có các dấu hiệu vàng da, vàng mắt...

Các triệu chứng nói trên thường nhẹ, kéo dài từ 6– 8 tuần, từ từ thuyên giảm rồi hoàn toàn biến mất sau một thời gian ngắn. Sau đó bệnh khỏi hẳn hoặc chuyển sang một trong các tiên liệu sau:

Tiềm ẩn, không hoạt động (dormant).

Tiếp tục phát triển thành thể mạn tính hoạt động (chronic active).

Khoảng 80 đến 90% số người bị nhiễm HCV sẽ chuyển sang giai đoạn viêm gan C mạn tính, Trong số đó có khoảng 60 – 70% là viêm gan C mạn tính thể phát triển. Sự phát hiện kịp thời ngay từ giai đoạn này giúp gia tăng khả năng điều trị bệnh đến mức tối đa.

Do các triệu chứng của bệnh viêm gan C rất mờ nhạt, trong rất nhiều trường hợp lại hầu như không có triệu chứng gì, nên việc chẩn đoán phát hiện và xác định bệnh chủ yếu dựa vào các kết quả xét nghiệm.

Chẩn đoán phát hiện sớm là yếu tố rất quan trọng trong việc điều trị bệnh viêm gan C, bởi vì cho dù khả năng điều trị bệnh này hiện nay đã mang lại nhiều kết quả khả quan, nhưng việc điều trị sẽ không có mấy kết quả nếu như phát hiện bệnh vào giai đoạn quá muộn. Chẩn đoán phát hiện chủ yếu nhờ vào các thử nghiệm máu thông thường trong những lần khám sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện có sự tăng cao của men gan ALT trong máu, cần nghĩ ngay đến khả năng viêm gan.

Yếu tố thứ hai được xem như dấu hiệu của viêm gan là bilirubin. Chất này khi tăng cao đến trên 0,40mg trong một lít máu sẽ bắt đầu tạo ra hiện tượng vàng da, vàng mắt. Khi xét nghiệm máu cho thấy bilirubin tăng cao, cần nghĩ đến khả năng viêm gan. Khi đã nghi ngờ có viêm gan C, cần tiếp tục thực hiện xét nghiệm máu tìm kháng thể chống HCV (Heppatitis C Virus-Antibody). Kết quả xét nghiệm dương tính có thể cho phép kết luận là bệnh nhân đang mắc bệnh viêm gan C.

Trong quá trình điều trị, có thể thực hiện xét nghiệm Quantative HCV-ARN để theo dõi diễn tiến của bệnh. Loại xét nghiệm đặc biệt này cho phép đếm được tổng số HCV trong 1 cm3  máu của bệnh nhân vào từng thời điểm khác nhau. Nếu số lượng HCV không giảm bớt sau 6 tháng điều trị, có thể xem như phương pháp điều trị đang áp dụng không mang lại hiệu quả.

Ngoài ra cũng cần xác định kiểu loại di truyền (genotype) của virus viêm gan C. Nếu genotype được xác định là loại 1, bệnh nhân cần điều trị khoảng một năm. Nếu là loại 2 hoặc loại 3, thời gian điều trị là khoảng 6 tháng. Những loại khác có thể phải điều trị từ 6 đến 12 tháng, tùy theo từng trường hợp.

Một số xét nghiệm khác cũng được áp dụng để góp phần theo dõi diễn tiến của bệnh. Chẳng hạn như, nồng độ alfa-feto-protein trong máu tăng cao có thể xem là dấu hiệu của ung thư gan, thời gian đông máu (Prothrombin time) gia tăng là dấu hiệu của suy giảm chức năng gan, siêu âm gan giúp quan sát hình dạng, kích thước của gan và phát hiện các bất thường, sinh thiết gan giúp đánh giá mức độ viêm gan...

Tiên lượng

Nói chung, sau giai đoạn viêm gan C cấp tính sẽ có khoảng 10 đến 15% số bệnh nhân may mắn được hoàn toàn khỏi bệnh, không cần điều trị gì cả.

Từ 20 đến 25% bệnh nhân sẽ chuyển sang giai đoạn mạn tính âm thầm. HCV ở các bệnh nhân này “không hoạt động”, do đó họ không có triệu chứng gì và cũng không bị thương tổn ở gan. Những người may mắn này rất hiếm khi chuyển sang xơ gan, nhưng họ có khả năng lây truyền HCV sang người khác.

Từ 60 đến 70% bệnh nhân viêm gan C sẽ chuyển sang viêm gan C mạn tính thể phát triển. Trong số này, phần lớn được tiên liệu cũng không tử vong vì bệnh, vì các thương tổn của gan nhẹ và phát triển chậm. Nhưng có khoảng 20% sẽ phát triển thành xơ gan sau 10 đến 20 năm, thậm chí có thể chuyển sang ung thư gan. Tỷ lệ ung thư gan hằng năm do bệnh này là khoảng từ 1 đến 5%.

Điều trị

Bệnh diễn tiến âm thầm, các triệu chứng mờ nhạt hoặc không có, nên kết quả điều trị hầu như phu thuộc hoàn toàn vào khả năng phát hiện bệnh sớm. Bệnh được phát hiện càng sớm thì hiệu quả điều trị càng cao hơn.

Trong suốt giai đoạn nhiễm HCV cho đến khi phát triển viêm gan C cấp tính, không có bất cứ loại thuốc men hay phương pháp điều trị nào có hiệu quả tác động vào tiến trình của bệnh.

Khi bệnh chuyển sang thể mạn tính, việc điều trị có thể bắt đầu càng sớm càng tốt. Nếu bệnh nhân không được phát hiện vào đầu giai đoạn này, bệnh sẽ âm thầm tiến triển và khả năng điều trị ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Mục đích của việc điều trị trong giai đoạn viêm gan C mạn tính là tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể và ngăn cản HCV tấn công các tế bào gan còn lành mạnh, cũng như ngăn cản không cho HCV tiếp tục tăng trưởng. Hiện nay, viêm gan C được điều trị kết hợp 2 loại thuốc Interferon và Ribavirin, thay vì là dùng đơn độc từng loại như trước đây. Với dạng thuốc mới của Interferon là PEG-Interferon, hiệu quả điều trị được nâng cao và tác dụng kéo dài hơn, mỗi tuần chỉ cần tiêm 1 lần, thay vì 3 lần như các dạng thuốc trước đây. Nếu phát hiện kịp thời và điều trị bằng PEG-Interferon kết hợp với Ribavirin trong vòng 6 tháng, tỷ lệ khỏi bệnh lên đến 88% đối với bệnh nhân viêm gan C loại 2 và loại 3. Đối với các loại C1a, C1b... tỷ lệ khỏi bệnh cũng lên đến khoảng 50% với thời gian điều trị là 1 năm. Thuốc có nhiều tác dụng phụ nên nhất thiết phải được sử dụng với sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ điều trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Thực hành chẩn đoán và điều trị mỏng giác mạc

Nhỏ phẩm nhuộm fluorescein vào mắt để phát hiện các vết trầy xước trên giác mạc, vì màu fluorescein sẽ dính lại ở đó và phản chiếu khi ta dùng tia sáng màu xanh rọi vào mắt.

Chảy nước mắt bất thường

Trường hợp thứ hai do tắc nghẽn kênh dẫn lưu nước mắt. Những nguyên nhân có thể là: nhiễm trùngđường hô hấp trên, mí mắt quặm.

Thực hành chẩn đoán và điều trị trầm cảm sau sinh

Các yếu tố tình cảm, tâm lý đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm sự trầm cảm. Người bệnh cần được gần gũi, chia sẻ tình cảm, có cơ hội để bộc lộ những suy nghĩ, tâm sự riêng tư.

Thực hành chẩn đoán và điều trị co giật ở trẻ em

Có thể tham khảo ý kiến bác sĩ để ngừng dùng thuốc chống co giật nếu trẻ không còn co giật trong vòng 2 – 3 năm.

Chảy máu âm đạo ngoài chu kỳ kinh hoặc sau giao hợp

Phụ nữ trên 40 tuổi luôn cần được khám chuyên khoa, trừ khi triệu chứng chảy máu đã được giải quyết sau khi loại trừ một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như polyp.

Thực hành chẩn đoán và điều trị dị vật vào mắt

Dị vật vào mắt là trường hợp rất thường gặp, có thể từ rất nhẹ như những trường hợp do gió thổi bụi vào mắt, cho đến những trường hợp nặng như dị vật cắm sâu vào nhãn cầu.

Thực hành chẩn đoán và điều trị mắt đau không đỏ

Do bị viễn thị (longsightedness). Do bị chứng đau nửa đầu (migraine). Do bị viêm xoang (sinusitis). Do bị đau đầu vì căng thẳng.

Thực hành chẩn đoán và điều trị ợ nóng khi mang thai

Hiện tượng này xảy ra một cách hoàn toàn tự nhiên khi mang thai, do sự lớn lên của thai gây chèn ép thể tích vùng bụng, làm cho cơ vòng giữa thực quản và dạ dày không thể đóng kín lại.

Thực hành chẩn đoán và điều trị mụn cóc

Liệu pháp lạnh với nitơ lỏng có thể được dùng cho những mụn cóc không đáp ứng với thuốc bôi. Phương pháp điều trị này gây đau nhiều nên không hợp với trẻ em.

Thực hành chăm sóc hăm tã trẻ em

Giữ tã khô bằng cách thay tã cho trẻ thường xuyên và ngay sau khi trẻ làm ướt tã, tránh không để da trẻ phải tiếp xúc quá lâu với nước tiểu.

Thực hành chăm sóc trẻ khóc nhiều và thất thường

Bế trẻ lên vai và đi lại trong nhà một lúc có thể làm cho trẻ bớt khóc. Xoa bàn tay trên lưng hoặc trên bụng đôi khi cũng có thể tạm thời làm cho trẻ nín khóc.

Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh sởi

Trẻ em dưới 8 tháng tuổi rất hiếm khi mắc bệnh sởi, nhờ có kháng thể nhận được từ sữa mẹ. Vì thế, nuôi con bằng sữa mẹ cũng là một cách bảo vệ trẻ chống lại bệnh này.

Thực hành chẩn đoán và điều trị thiếu máu

Thiếu máu ác tính: Trong bệnh thiếu máu ác tính thì thiếu vitamin B12 là do cơ thể giảm sản xuất yếu tố nội tại cần thiết cho việc hấp thụ loại vitamin này.

Thực hành chẩn đoán và điều trị tăng lipid máu

Cao cholesterol là nguy cơ chính trong sự phát triển bệnh mạch vành và các bệnh tim mạch. Vì thế, khi theo dõi các loại bệnh này, cần lưu ý đến nồng độ cholesterol trong máu người bệnh.

Thực hành chẩn đoán và điều trị liệt bell

Có thể rút ngắn thời gian hồi phục bằng cách cho dùng prednisolon 40mg mỗi ngày, liên tục trong 1 tuần, sau đó giảm liều thấp dần sao cho sau 3 tuần nữa thì không còn dùng thuốc.

Thực hành chẩn đoán và điều trị lang ben

Dùng thuốc bôi tại chỗ có chứa selen sulfur, chẳng hạn như Selsun. Trước tiên, vệ sinh toàn thân bằng cách tắm sạch với dung dịch tẩy rửa Mercryl Laurylé.

Thực hành chẩn đoán và điều trị RH âm khi mang thai

Những bà mẹ có Rh âm cần được tiêm kháng thể chống yếu tố D (kháng D) sau khi sinh để ngừa sự phát triển của kháng thể kháng D.

Thực hành chăm sóc các vấn đề hô hấp trẻ em

Viêm tiểu phế quản thường gây ho kích thích, làm trẻ thở nhanh, khó bú, nhất là khi có kèm theo sổ mũi. Thăm khám nghe thấy tiếng khò khè, nhất là khi thở ra.

Thực hành chẩn đoán và điều trị sỏi tiết niệu

Sỏi thường xuất hiện trong những trường hợp có dấu hiệu mất nước nhẹ, có lẽ do độ đậm đặc của nước tiểu gia tăng.

Thực hành chẩn đoán và điều trị béo phì

Không nên yêu cầu giảm cân quá nhanh. Với chế độ ăn uống cung cấp không quá 1000 calori mỗi ngày, người bệnh có thể hy vọng giảm cân từ 0,5 – 1kg mỗi tuần.

Thực hành chẩn đoán và điều trị tiêu chảy

Độc tố trong thức ăn thường là do các loại vi khuẩn sinh ra, chẳng hạn như độc tố của các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Clostridium, Salmonella, Campylobacter jejuni.

Tránh thai đối với phụ nữ sắp mãn kinh

Sau khi ngừng thuốc, nếu xác định chắc chắn kinh nguyệt đã chấm dứt, thì việc sử dụng các biện pháp tránh thai chỉ cần tiếp tục trong vòng một năm nữa.

Thực hành chẩn đoán và điều trị ho gà

Sự lây lan của bệnh sang người khác rất khó đề phòng, do khả năng lây lan rất cao trong thời gian ủ bệnh của người bệnh, là lúc mà các triệu chứng của bệnh chưa được phát hiện.

Thực hành chẩn đoán và điều trị mãn kinh

Phần lớn phụ nữ khi mãn kinh xảy ra triệu chứng khô âm đạo. Sự suy giảm estrogen làm cho lớp niêm mạc âm đạo bị teo mỏng, âm đạo dễ nhiễm trùng và đau khi giao hợp.

Viên uống tránh thai kết hợp

Viên uống tránh thai kết hợp được dùng theo chu kỳ kinh nguyệt, mỗi ngày 1 viên vào cùng một thời điểm, liên tục trong 21 ngày đầu và nghỉ thuốc 7 ngày cuối, sau đó bắt đầu ngay chu kỳ mới.