Sản xuất bài tiết và hóa sinh các hormone sinh dục nam

2020-06-09 03:37 PM

Thuật ngữ androgen dùng để chỉ các hormone steroid nam giới, gồm testosterone, cũng bao gồm các hormone sinh dục nam khác được sản xuất ở các nơi khác của cơ thể, ngoài tinh hoàn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Sản xuất testosterone nhờ các tế bào Leydic ở khoảng kẽ của tinh hoàn

Tinh hoàn tiết ra khá nhiều hormone sinh dục nam, được gọi chung là các androgen, bao gồm testosterone, dihydrotestosterone, và androstenedione. Testosterone được tiết ra nhiều nhất ở tinh hoàn, và đó là lý do nó được gọi là hormone chính của tinh hoàn, mặc dù ở mô đích, chúng hầu hết được chuyển hóa thành dihydrotestosterone, một dạng hoạt động hơn testosterone.

Testosterone được tiết ra bởi các tế bào Leydic nằm ở khoảng kẽ của các ống sinh tinh, chiếm đến 20% khối lượng của tinh hoàn, như thể hiện trong hình. Tế bào Leydic gần như không tồn tại trong suốt thời niên thiếu, do tinh hoàn hầu như không tiết testosterone trong thời kì này, nhưng trong vài tháng đầu của cuộc đời và khi bắt đầu dậy thì, tinh hoàn lúc đó tiết ra một lượng lớn testosterone.

Testosterone cũng tang tiết một khi xuất hiện khối u ở khoảng kẽ. Cuối cùng, khi các tế bào mầm tinh hoàn bị phá hủy bởi tia X hay nhiệt độ quá cao, thì các tế bào Leydic ít bị phá hủy hơn, vẫn tiếp tục tiết testosterone.

Tế bào Leydic

Hình. Tế bào Leydic, sản xuất testosterone, nằm ở khoảng kẽ giữa các ống sinh tinh

Sự tiết androgen ở những nơi khác của cơ thể

Thuật ngữ androgen dùng để chỉ các hormone steroid nam giới, gồm testosterone, cũng bao gồm các hormone sinh dục nam khác được sản xuất ở các nơi khác của cơ thể, ngoài tinh hoàn. Ví dụ, tuyến thượng thận tiết ra ít nhất 5 hormone sinh dục nam, mặc dù tổng tác động phân hóa đặc tính nam giới trên toàn bộ androgen của chúng là rất ít (chỉ khoảng 5% ở nam giới trưởng thành), mà ngay cả ở phụ nữ chúng cũng không gây thể hiện các đặc tính nam rõ rệt, ngoại trừ việc mọc lông mu và lông nách.

Tuy nhiện, một khi có khối u ở các tế bào sản xuất androgen của tuyến thượng thận, lượng androgen lúc này đủ để gây ra tất cả các đặc tính sinh dục phụ của nam giới, thậm trí ở nữ giới.

Hiếm khi tế bào mào phôi trong buồng trứng có thể phát triển thành khối u tiết quá nhiều androgen, gọi là u quái. Các buồng trứng bình thường cũng tiết ra androgen, nhưng không đáng kể.

Hóa sinh của androgen

Tất cả các androgen đều là các hợp chất steroid, như thể hiện công thức trong hình là testosterone và dihydrotestosterone. Cả ở tinh hoàn hay tuyến thượng thận, androgen được tổng hợp từ cholesterone hay trực tiếp từ acetyl coenzyme A.

Testosterone và dihydrotestosterone

Hình: Testosterone và dihydrotestosterone

Chuyển hóa testosterone

Sau khi sinh ra ở tinh hoàn, 97% testosterone trở thành một trong haui dạng, gắn lỏng lẻo với albumin, hoặc gắn một cách chặt chẽ hơn với beta globulin, được gọi với cái tên protein vận chuyển hormone sinh dục và được lưu thông trong máu ở các mô trong khoảng 30 phút đến 1 giờ. Trong khoảng thời gian đó, testosterone hoặc được vận chuyển đến các mô thực hiện chức năng hoạt bị thoái hóa thành các sản phẩm không hoạt động và sau đó được thải ra ngoài.

Phần lớn testosterone đến mô được tế bào chuyển thành dạng dihydrotestosterone, đặc biệt ở trong tế bào tuyến tiền liệt và trong mô sinh dục ngoài của thai nhi nam. Một số, không có nghĩa là tất cả hoạt động của testosterone đều cần quá trình này. Các chức năng trong tế bào của testosterone sẽ được nói đến sau trong chương này.

Thoái hóa và bài tiết testosterone

Các testosterone nếu không được gắn vào mô sẽ nhanh chóng bị thoái hóa, đặc biệt ở gan, thành dạng androsterone và dehydroepiandrosterone, đồng thời liên hợp với glucuronidase hoặc sulfat. Những hợp chất này sẽ bị đào thải qua mật, xuống ruột, hoặc qua nước tiểu.

Sản xuất estrogen ở nam giới

Bên cạnh testosterone thì một lượng nhỏ estrogen cũng được sản xuất ở cơ thể nam giới (bằng khoảng 1/5 lượng estrogen ở nữ giới không mang thai). Một số lượng nhất định estrogen đã được tìm thấy ở nước tiểu của nam giới. Nguồn gốc của estrogen này vẫn chưa được sáng tỏ, nhưng một số nguồn được biết đến là:

Nồng độ estrogen trong dịch ống sinh tinh của nam giới tương đối cao và có lẽ đóng vao trò quan trọng trong sự sinh tinh. Estrogen này có lẽ là được tế bào Sertoli chuyển đổi testosterone thành estradiol.

Lượng lớn hơn rất nhiều estrogen được sản xuất tai gan và các mô khác trong cơ thể, từ testosterone và androstanediol, có thể chiếm đến 80% tổng estrogen ở nam giới.

Bài viết cùng chuyên mục

Sự ảnh hưởng lẫn nhau của trục dưới đồi tuyến yên buồng trứng

Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, và được gọi là chu kì không rụng trứng. Các giai đoạn của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên trứng không rụng làm cho hoàng thể không phát triển.

Điện thế nghỉ của sợi thần kinh

Đặc điểm chức năng của bơm Na +-K + và của các kênh rò rỉ K +. ADP, adenosine diphosphate; ATP, adenosine triphosphate.

Cân bằng dịch acid base và chức năng thận ở trẻ sơ sinh

Tốc độ chuyển hóa ở trẻ sơ sinh cũng gấp đôi người trưởng thành khi cùng so với trọng lượng cơ thể, chúng có nghĩa là bình thường acid được hình thành nhiều hơn, tạo ra xu hướng nhiễm toan ở trẻ sơ sinh.

Đại cương sinh lý học gan mật

Giữa các tế bào gan và lớp tế bào nội mô xoang mạch có một khoảng gọi là khoảng Disse, đây là nơi xuất phát hệ bạch huyết trong gan.

Giải phẫu chức năng của khu liên hợp vỏ não

Những khu vực liên hợp cũng có phân hóa chuyên môn riêng của nó. Các khu vực liên hợp quan trọng bao gồm: (1) khu liên hợp đỉnh- chẩm, (2) khu liên hợp trước trán, và (3) khu liên hợp hệ viền.

Tăng huyết áp: gây ra bởi sự kết hợp của tăng tải khối lượng và co mạch

Tăng huyết áp di truyền tự phát đã được quan sát thấy ở một số chủng động vật, bao gồm các chủng chuột, thỏ và ít nhất một chủng chó.

Áp suất thủy tĩnh của dịch kẽ

Trong hầu hết các hốc tự nhiên của cơ thể, nơi có dịch tự do ở trạng thái cân bằng động với chất lỏng xung quanh, những áp lực đo được là âm.

Vai trò của hemoglobin trong vận chuyển và sự kết hợp của ô xy

Các phân tử O2 gắn lỏng lẻo và thuận nghịch với phần heme của hemoglobin. Khi PO2 cao, như trong các mao mạch phổi, O2 gắn với hemoglobin, nhưng khi PO2 thấp, như trong các mao mạch ở mô, O2 được giải phóng từ hemoglobin.

Áp lực hệ thống phổi: áp lực trong các buồng tim và mạch máu

Trong suốt tâm thu, áp lực trong động mạch phổi cơ bản bằng áp lực trong tâm thất phải. Sau khi van động mạch phổi đóng lại ở cuối tâm thu, áp lực tâm thất giảm nhanh chóng trong khi áp lực động mạch phổi giảm chậm hơn khi máu chảy qua các mao mạch phổi.

Receptor: sự thích nghi và chức năng dự báo receptor tốc độ

Sự thích ứng của các loại thụ thể khác nhau cho thấy sự thích nghi nhanh chóng của một số thụ thể và sự thích ứng chậm của những thụ thể khác.

Trao đổi dịch qua màng mao mạch

Áp lực tái hấp thu làm cho khoảng 9/10 lượng dịch đã được lọc ra khỏi đầu mao động mạch được hấp thụ lại ở mao tĩnh mạch. Một phần mười còn lại chảy vào các mạch bạch huyết và trả về tuần hoàn chung.

Sự bảo vệ cơ thể và tái sản xuất

Hệ miễn dịch có các vai trò phân biệt tế bào của cơ thể với tế bào và các chất lạ thường;  phá hủy chúng nhờ đại thực bào hoặc tạo ra các lympho bào và prôtein đặc hiệu hoặc làm vô hiệu hoá các kháng nguyên.

Synap thần kinh trung ương: giải phẫu sinh lý của synap

Nhiều nghiên cứu về synap cho thấy chúng có nhiều hình dáng giải phẫu khác nhau, nhưng hầu hết chúng nhìn như là cái nút bấm hình tròn hoặc hình bầu dục, do đó, nó hay được gọi là: cúc tận cùng, nút synap, hay mụn synap.

Tinh dịch của nam giới

Tinh trùng có thể tồn tại khá lâu trong đường sinh dục nam, nhưng một khi đã xuất tinh, chúng chỉ có thể sống được khoảng 24 đến 48 giờ ở nhiệt độ cơ thể người.

Sự vận động của tế bào cơ thể người

Yếu tố cần thiết của sự chuyển động là cung cấp năng lượng cần thiết để kéo tế bào về phía chân giả. Trong bào tương của tất cả tế bào là một lượng lớn protein actin.

Tiêu cự của thấu kính: nguyên lý quang học nhãn khoa

Các tia sáng đi đến thấu kính hội tụ không phải là một chùm tia song song mà là phân kì bởi vì nguồn phát các tia sáng không đặt xa thấu kính đó.

Đường cong áp suất động mạch chủ

Sau khi van động mạch chủ đóng, áp suất động mạch chủ giảm chậm suốt thì tâm trương do máu chứa trong các động mạch chun co giãn tiếp tục chảy qua các mạch ngoại vi để về tĩnh mạch.

Đám rối thần kinh cơ ruột và đám rối thần kinh dưới niêm mạc

Đám rối thần kinh cơ ruột không hoàn toàn có tác dụng kích thích vì một số neuron của nó có tác dụng ức chế; tận cùng của các sợi đó tiết ra một chất ức chế dẫn truyền, có thể là “polypeptide hoạt mạch ruột”.

Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi

Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.

Các chất giải phóng từ tế bào hình sao điều hòa lưu lượng máu não

Các chất trung gian chưa được biết rõ, nitric oxit, các chất chuyển hóa của acid arachidonic, ion kali, adenosin và các chất khác tạo ra bởi tế bào hình sao dưới kích thích của các neuron gần kề là các chất trung gian giãn mạch quan trọng.

Chuyển hóa ô xy và chất dinh dưỡng của não

Phần lớn sự chuyển hóa của não xảy ra ở các neuron mà không phải ở các tế bào thần kinh đệm. Nhu cầu chuyển hóa chính của các neuron là để bơm các ion qua màng, chủ yếu là vận chuyển natri, canxi và kali.

Sinh lý tiêu hóa ở dạ dày

Lúc đói, cơ dạ dày co lại, khi ta nuốt một viên thức ăn vào thì cơ giãn ra vừa đủ, để chứa viên thức ăn đó, vì vậy áp suất trong dạ dày không tăng lên.

Trở kháng thành mạch với dòng máu của hệ tuần hoàn

Trở kháng là sự cản trở với dòng máu trong mạch, không thể đo bằng phương tiện trực tiếp, chỉ được tính từ những công thức, phép đo của dòng máu và sự chênh lệch áp lực giữa 2 điểm trên mạch.

Điều hòa vận động: vai trò của suốt cơ

Mỗi suốt cơ dài từ 3-10 mm. Chúng được tạo thành từ khoảng 3-12 các sợi cơ vẫn rất mảnh gọi là sợi nội suốt, nhọn ở 2 đầu và được gắn vào lưới polysaccarid ở quanh các sợi lớn hơn gọi là sợi ngoại suốt.

Tốc độ cung cấp máu cho cơ

Sự thay đổi lưu lượng máu trong quá trình co cơ. Lưu lượng tăng và giảm với mỗi cơ. Ở cuối thời kì co cơ, tốc độ máu tăng cao một vài giây và quay trở lại trạng thái bình thường trong vài phút sau đó.