- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên
Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên
LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Việc kiểm soát chức năng tình dục nam giới hay nữ giới đều bắt đầu từ việc tiết GnRH (gonadotropin releasing hormone) từ vùng dưới đồi. Hormon này kích thích tuyến yên tiết ra 2 gonadotropic hormone khác là LH ( luteinizing hormone) và FSH (folicle stimuilating hormone). LH cần thiết cho sự tiết testosterone của tinh hoàn, còn FSH kích thích sự sinh tinh.
GnRh và vai trò của nó trong kích thích hình thành LH và FSH
GnRH là một peptid gồm 10 acid amine, được tiết ra từ tế bào thần kinh ở nhân arcuate ở vùng dưới đồi. Các tận cùng thần kinh kết thúc ở xám, nơi chúng tiết GnRH vào đám rối sơ cấp hệ cửu tuyến yên. GnRH sau đó được vận chuyển trong tuyến yên kích thích sự tiết 2 hormon LH và FSH.
Cứ mỗi 1 đến 3 giờ thì GnRH lại được tiết ra liên tục trong vài phút. Lượng hormone tiết ra phụ thuộc vào 1. Số chu kì tiết hormone trong 1 thời gian 2. Lượng hormone tiết ra trong mỗi chu kì.
Sự tiết LH của tuyến yên cũng có tính chu kì, sự tăng hay giảm nồng độ LH thay đổi nhịp nhàng với sự thay đổi nồng độ GnRH. Trái lại, nồng độ FSH thay đổi khá ít mỗi khi có sự tăng hay giảm nồng độ GnRH, đáp ứng với sự thay đổi dài hạn trong vài giờ của GnRH. Do mối quan hệ chặt chẽ của nồng độ GnRH và LH mà GnRH còn thường gọi với cái tên hormone tiết LH.
LH và FSH
Cả LH và FSH đều được tiế ra bởi cùng một loại tế bào gọi là gonadotropes ở thùy trước tuyến yên. Nếu không có GnRh tiết ra từ vùng dưới đồi, các gonadotropes hầu như không tiết LH hay FSH.
LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.
Ảnh hưởng của LH lên sự tiết testosterone. Testosteron được tiết ra bởi các tế bào Leydic trong khoảng kẽ của tinh hoàn, nhưng chỉ khi có sự kích thích của LH. Hơn nữa lượng testosterone được tiết ra gần như tỷ lệ thuận với nồng độ LH.
Các tế bào Leydic được tìm thấy ở tinh hoàn đứa trẻ trong vòng vài tuần sau khi sinh và gần như biến mất trong khoảng 10 năm sau đó. Tuy nhiên nếu tiêm LH tinh khiết vào tinh hoàn một đứa trẻ ở bất kì độ tuổi nào hoặc với sự tiết LH của tuyến yên vào tuổi dậy thì sẽ khiến các tế bào kẽ tưởng chừng như các tế bào xơ sợi bình thường của tinh hoàn trờ thành các tế bào Leydic điển hình có chức năng.
Ức chế tiết LH và FSH bởi ức chế ngược từ nồng độ testosterone. Testosterone được tiết ra dưới sự kích thích của LH cũng đồng thời có thể ức chế thùy trước tuyến yên tiết ra LH. Nhưng đa số sự ức chế này đến từ việc testosterone ức chế lên vùng dưới đồi ngăn cản việc tiết GnRH. Kết quả của việc này là sự giảm tương ứng cả LH và FSH, kết quả là giảm sự tiết testosterone ở tinh hoàn. Do đó, bất cứ khi nào nồng độ testosterone quá cao sẽ kích hoạt quá trình điều hòa ngược này, tác động thông qua hoạt động của thùy trước tuyến yên và vùng dưới đồi, khiến nồng độ testosterone trở về mức bình thường. Ngược lại nếu nồng độ testosterone trở nên quá ít, sẽ kích thích vùng dưới đồi sản xuất GnRH, kích thích thùy trước tuyến yên sản xuất LH và FSH, làm tinh hoàn gia tăng tổng hợp testosterone.
Hình. Cơ chế ức chế ngược của testosterone lên trục dưới đồi, tuyến yên
Ảnh hưởng FSH và testosterone lên quá trình sinh tinh. FSH gắn với thụ thể tương ứng của nó trên tế bào Sertoli ở ống sinh tinh, là nguyên nhân giúp tế bào Sertoli phát triển, kích thích chúng sản xuất các chất sinh tinh khác. Đồng thời testosterone ( và dihydrotestosterone) khuyếch tán từ tế bào Leydic vào ống sinh tinh cũng tác động mạnh mẽ lên sự sinh tinh. Như vậy, cả FSH và testosterone đều có vai trò quan trọng trong sự sinh tinh.
Vai trò của ức chế ngược lên hoạt động của ống sinh tinh. Khi ống sinh tinh không sản xuất tinh trùng, lượng FSH được tăng lên một cách đáng kể. Ngược lại khi tổng hợp tinh trùng quá nhanh, tuyến yên sẽ giảm tổng hợp FSH. Nguyên nhân của phản hồi âm tính này được cho là của một hormone khác do tế bào Sertolin tiết ra, là hormone Inhibin (hình). Hormone này ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên tuyến yên ức chế sản xuất FSH.
Inhibin là một glycoprotein, giống LH và FSH, có trọng lượng phân tử trong khoảng 10.000 đến 30.000 Da. Nó có thể được phân lập từ nuôi cấy tế bào Sertoli. Tác động ức chế mạnh của nó lên tuyến yên là một cơ chế quan trọng trong kiểm soát sự sinh tinh, bên cạnh tác động ức chế ngược âm tính của testosterone lên tuyến yên.
HCG (human chorionic godonatropin) tiết ra từ nhau thai kích thích tinh hoàn sản xuất testosterone
Trong quá trình mang thai, HCG do rau thai tiết ra lưu hành ở cả cơ thể mẹ và thai. Hormone này có cùng tác dụng lên các cơ quan sinh dục của cơ thể như LH. Trong quá trình mang thai, nếu thai nhi là nam, hCG của nhau thai kích thích tinh hoàn tiết testosterone, Testosterone kích thích hình thành các cơ quan sinh dục nam như đã nói trước đó. Chúng tôi sẽ thảo luận về chức năng của hCG trong quá trình mang thai nhiều hơn trong chương 83.
Tuổi dậy thì và cơ chế khởi phát
Khởi đầu tuổi dậy thì như thế nào từ lâu đã là một điều bí ẩn, nhưng nó đã được xác định là do vùng dưới đồi không sản xuất một lượng GnRH thích hợp. Một trong những lý do của điều này là, trong suốt thời thơ ấu, sự tiết ra dù là nhỏ nhất của hormone sinh dục cũng gây ức chế tiết GnRH. Tuy nhiên, vì lý do gì chưa rõ, sự tiết GnRH trong tuổi dậy thì lại phá vỡ được sự ức chế trước đó, và bắt đầu đời sống tình dục ở người trưởng thành.
Đời sống sinh dục của nam giới và thời kì mãn kinh nam. Sau tuổi dậy thì, hormone gonadotropic vẫn được sản xuất trong suốt cuộc đời còn lại, và sự sinh tinh vẫn còn tiếp tục cho đến lúc chết. Tuy nhiên, hầu hết đàn ông sẽ suy giảm từ từ chức năng sinh dục của họ vào những năm 50 hay 60 của cuộc đời. Sự suy giảm này có sự khác biệt đáng kể ở những người vẫn còn khả năng cương dương ở tuổi 80 hay 90.
Sự suy giảm chức năng sinh dục này được cho là do sự suy giảm sản xuất testosterone, như thể hiện trong hình. Sự suy giảm chức năng sinh dục nam được gọi là mãn kinh nam. Đôi khi mãn kinh nam cũng đi kèm với các triệu chứng như cơn nóng bừng, nghẹt thở, rối loạn tâm lý cảm xúc giống thời kì mãn kinh ở nữ giới. Nhưng triệu chứng này có thể khắc phục nhờ testosterone tổng hợp, hoặc thậm trí là estrogen dùng để điều trị triệu chứng mãn kinh ở nữ.
Bài viết cùng chuyên mục
Sự khuếch tán dễ qua màng tế bào
Khuếch tán được làm dễ cần đến sự giúp đỡ của protein mang. Protein mang giúp một phân tử hay ion đi qua màng bởi liên kết hóa học với chúng.
Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô
Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.
Giải phẫu sinh lý sợi cơ vân
Trong hầu hết các cơ vân, mỗi sợi kéo dài trên toàn bộ chiều dài của cơ. Ngoại trừ cho khoảng 2% của sợi, mỗi sợi thường được phân bố bởi chỉ một tận cùng thần kinh, nằm gần giữa của sợi.
Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước
Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.
Phân ly ô xy hemoglobin thay đổi do BPG và lao động nặng
Trong khi lao động, một số yếu tố chuyển dịch đồ thị phân ly sang phải một cách đáng kể. Do đó cung cấp thêm O2 cho hoạt động, co cơ. Các cơ co sẽ giải phóng một lượng lớn khí CO2.
Vận chuyển dịch ngoại bào và trộn lẫn máu trong hệ tuần hoàn
Thành của các mao mạch cho thấm qua hầu hết các phân tử trong huyết tương của máu,ngoại trừ thành phần protein huyết tương, có thể do kích thước của chúng quá lớnđể đi qua các mao mạch.
Chức năng thính giác của vỏ não: cơ chế thính giác trung ương
Mỗi neuron riêng lẻ trong vỏ não thính giác đáp ứng hẹp hơn nhiều so với neuron trong ốc tai và nhân chuyển tiếp ở thân não. Màng nền gần nền ốc tai được kích thích bởi mọi tần số âm thanh, và trong nhân ốc tai dải âm thanh giống vậy được tìm thấy.
Sự dẫn truyền cảm giác: đặc điểm trong con đường trước bên
Hệ trước bên là hệ thống dẫn truyền chưa phát triển bằng hệ thống cột tủy sau - dải cảm giác giữa. Thậm chí, các phương thức cảm giác nhất định chỉ được dẫn truyền trong hệ thống này.
Phối hợp các chức năng của cơ thể qua chất dẫn truyền hóa học
Hormone được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào.
Sóng chạy: sự dẫn truyền của sóng âm trong ốc tai
Các kiểu dẫn truyền khác nhau của sóng âm với các tần số khác nhau. Mỗi sóng ít kết hợp ở điểm bắt đầu nhưng trở nên kết hợp mạnh mẽ khi chúng tới được màng nền, nơi có sự cộng hưởng tự nhiên tần số bằng với tần số của các sóng riêng phần.
Các con đường gian nút và liên nhĩ: dẫn truyền xung động tim qua tâm nhĩ
Điện thế hoạt động bắt nguồn từ nút xoang đi ra ngoài vào trong các sợi cơ tâm nhĩ. Bằng cách này, điện thế hành động lan truyền qua toàn bộ khối cơ nhĩ và, cuối cùng, đến nút A-V.
Chu kỳ nội mạc tử cung và hành kinh
Vào thời gian đầu của mỗi chu kì, hầu hết nội mạc đã bị bong ra trong kinh nguyệt. Sau kinh nguyệt, chỉ còn lại một lớp nội mạc mỏng và những tế bào biểu mô còn sót lại được dính với vị trí sâu hơn của các tuyến chế tiết và lớp dưới nội mạc.
Điện thế hoạt động của tế bào thần kinh
Để tạo ra những tín hiệu thần kinh, điện thế hoạt động di chuyển dọc theo tế bào sợi thần kinh cho tới điểm kếtthúc của nó.
Chức năng của Mineralocorticoids Aldosterone
Aldosterol chiếm phần lớn hoạt tính mineralocorticoid của hormon vỏ thượng thận, nhưng corticoid là glucocorticoid chính được tiết ở vỏ thượng thận, cũng tham giá đáng kể vào hoạt tính của mineralocorticoid.
Khoảng kẽ và dịch kẽ: dịch và không gian giữa các tế bào
Khoảng một phần sáu tổng thể tích của cơ thể là không gian giữa các tế bào, chúng được gọi là khoảng kẽ. Các chất lỏng trong các không gian này được gọi là dịch kẽ.
Cuồng động nhĩ: rối loạn nhịp tim
Cuồng nhĩ gây ra nhịp dẫn truyền nhanh nhĩ thường là 200-350 nhịp/ phút. Tuy nhiên, bởi vì một phía của nhĩ co trong khi phía kia đang giãn, lượng máu nhĩ bơm rất ít.
Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường
Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.
Chức năng và ảnh hưởng của estrogen lên đặc tính sinh dục tiên phát và thứ phát
Trong thời thơ ấu, estrogen chỉ được tiết với một lượng rất nhỏ, nhưng đến giai đoạn dậy thì, lượng estrogen được tiết ra dưới sự kích thích của hormone điều hòa tuyến sinh dục của tuyến yên tăng lên trên 20 lần.
Dẫn truyền xung động từ tận cùng thần kinh tới sợi cơ vân: Khớp thần kinh cơ
Điện thế hoạt động bắt đầu lan truyền trong các sợi cơ vân bởi các xung thần kinh đi theo cả hai hướng về phía tận cùng sợi cơ.
Áp lực hệ thống phổi: áp lực trong các buồng tim và mạch máu
Trong suốt tâm thu, áp lực trong động mạch phổi cơ bản bằng áp lực trong tâm thất phải. Sau khi van động mạch phổi đóng lại ở cuối tâm thu, áp lực tâm thất giảm nhanh chóng trong khi áp lực động mạch phổi giảm chậm hơn khi máu chảy qua các mao mạch phổi.
Adenosine Triphosphate là đơn vị tiền tệ năng lượng của cơ thể
Adenosine triphosphate móc xích cần thiết giữa chức năng sử dụng và sản xuất năng lượng của cơ thể. Vì lý do này, ATP được gọi là đơn vị tiền tệ năng lượng của cơ thể.
Vùng dưới đồi điều khiển sự bài tiết của tuyến yên
Vùng dưới đồi là một trung tâm thu nhận thông tin liên quan đến các trạng thái của cơ thể, và những tín hiệu này được dùng để điều khiển sự bài tiết các hormone có tác dụng toàn thân từ tuyến yên.
Hormone parathyroid (tuyến cận giáp)
Tuyến cận giáp của con người trưởng thành, chứa chủ yếu là các tế bào chính và một số lượng nhỏ đến trung bình các tế bào oxyphil, nhưng tế bào oxyphil vắng mặt ở nhiều loài động vật cũng như ở người trẻ.
Vận chuyển acid béo tự do trong máu dưới dạng kết hợp với albumin
Ba phân tử acid béo liên kết với một phân tử albumin, nhưng nhu cầu acid béo dạng vận chuyển lớn thì có khoảng 30 phân tử acid béo có thể liên kết với một phân tử albumin.
Các sợi thần kinh: dẫn truyền các loại tín hiệu khác nhau và phân loại
Các sợi thần kinh đến có kích thước trung bình vào khoảng 0.5 đến 20 micromet; kích thước lớn hơn, tốc độ dẫn truyền cũng lớn hơn. Giới hạn tốc độ dẫn truyền trong khoảng 0.5 đến 120 m/giây.