Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên

2020-06-10 09:04 AM

LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Việc kiểm soát chức năng tình dục nam giới hay nữ giới đều bắt đầu từ việc tiết GnRH (gonadotropin releasing hormone) từ vùng dưới đồi. Hormon này kích thích tuyến yên tiết ra 2 gonadotropic hormone khác là LH ( luteinizing hormone) và FSH (folicle stimuilating hormone). LH cần thiết cho sự tiết testosterone của tinh hoàn, còn FSH kích thích sự sinh tinh.

GnRh và vai trò của nó trong kích thích hình thành LH và FSH

GnRH là một peptid gồm 10 acid amine, được tiết ra từ tế bào thần kinh ở nhân arcuate ở vùng dưới đồi. Các tận cùng thần kinh kết thúc ở xám, nơi chúng tiết GnRH vào đám rối sơ cấp hệ cửu tuyến yên. GnRH sau đó được vận chuyển trong tuyến yên kích thích sự tiết 2 hormon LH và FSH.

Cứ mỗi 1 đến 3 giờ thì GnRH lại được tiết ra liên tục trong vài phút. Lượng hormone tiết ra phụ thuộc vào 1. Số chu kì tiết hormone trong 1 thời gian 2. Lượng hormone tiết ra trong mỗi chu kì.

Sự tiết LH của tuyến yên cũng có tính chu kì, sự tăng hay giảm nồng độ LH thay đổi nhịp nhàng với sự thay đổi nồng độ GnRH. Trái lại, nồng độ FSH thay đổi khá ít mỗi khi có sự tăng hay giảm nồng độ GnRH, đáp ứng với sự thay đổi dài hạn trong vài giờ của GnRH. Do mối quan hệ chặt chẽ của nồng độ GnRH và LH mà GnRH còn thường gọi với cái tên hormone tiết LH.

LH và FSH

Cả LH và FSH đều được tiế ra bởi cùng một loại tế bào gọi là gonadotropes ở thùy trước tuyến yên. Nếu không có GnRh tiết ra từ vùng dưới đồi, các gonadotropes hầu như không tiết LH hay FSH.

LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.

Ảnh hưởng của LH lên sự tiết testosterone. Testosteron được tiết ra bởi các tế bào Leydic trong khoảng kẽ của tinh hoàn, nhưng chỉ khi có sự kích thích của LH. Hơn nữa lượng testosterone được tiết ra gần như tỷ lệ thuận với nồng độ LH.

Các tế bào Leydic được tìm thấy ở tinh hoàn đứa trẻ trong vòng vài tuần sau khi sinh và gần như biến mất trong khoảng 10 năm sau đó. Tuy nhiên nếu tiêm LH tinh khiết vào tinh hoàn một đứa trẻ ở bất kì độ tuổi nào hoặc với sự tiết LH của tuyến yên vào tuổi dậy thì sẽ khiến các tế bào kẽ tưởng chừng như các tế bào xơ sợi bình thường của tinh hoàn trờ thành các tế bào Leydic điển hình có chức năng.

Ức chế tiết LH và FSH bởi ức chế ngược từ nồng độ testosterone. Testosterone được tiết ra dưới sự kích thích của LH cũng đồng thời có thể ức chế thùy trước tuyến yên tiết ra LH. Nhưng đa số sự ức chế này đến từ việc testosterone ức chế lên vùng dưới đồi ngăn cản việc tiết GnRH. Kết quả của việc này là sự giảm tương ứng cả LH và FSH, kết quả là giảm sự tiết testosterone ở tinh hoàn. Do đó, bất cứ khi nào nồng độ testosterone quá cao sẽ kích hoạt quá trình điều hòa ngược này, tác động thông qua hoạt động của thùy trước tuyến yên và vùng dưới đồi, khiến nồng độ testosterone trở về mức bình thường. Ngược lại nếu nồng độ testosterone trở nên quá ít, sẽ kích thích vùng dưới đồi sản xuất GnRH, kích thích thùy trước tuyến yên sản xuất LH và FSH, làm tinh hoàn gia tăng tổng hợp testosterone.

Cơ chế ức chế ngược của testosterone lên trục dưới đồi, tuyến yên

Hình. Cơ chế ức chế ngược của testosterone lên trục dưới đồi, tuyến yên

Ảnh hưởng FSH và testosterone lên quá trình sinh tinh. FSH gắn với thụ thể tương ứng của nó trên tế bào Sertoli ở ống sinh tinh, là nguyên nhân giúp tế bào Sertoli phát triển, kích thích chúng sản xuất các chất sinh tinh khác. Đồng thời testosterone ( và dihydrotestosterone) khuyếch tán từ tế bào Leydic vào ống sinh tinh cũng tác động mạnh mẽ lên sự sinh tinh. Như vậy, cả FSH và testosterone đều có vai trò quan trọng trong sự sinh tinh.

Vai trò của ức chế ngược lên hoạt động của ống sinh tinh. Khi ống sinh tinh không sản xuất tinh trùng, lượng FSH được tăng lên một cách đáng kể. Ngược lại khi tổng hợp tinh trùng quá nhanh, tuyến yên sẽ giảm tổng hợp FSH. Nguyên nhân của phản hồi âm tính này được cho là của một hormone khác do tế bào Sertolin tiết ra, là hormone Inhibin (hình). Hormone này ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên tuyến yên ức chế sản xuất FSH.

Inhibin là một glycoprotein, giống LH và FSH, có trọng lượng phân tử trong khoảng 10.000 đến 30.000 Da. Nó có thể được phân lập từ nuôi cấy tế bào Sertoli. Tác động ức chế mạnh của nó lên tuyến yên là một cơ chế quan trọng trong kiểm soát sự sinh tinh, bên cạnh tác động ức chế ngược âm tính của testosterone lên tuyến yên.

HCG (human chorionic godonatropin) tiết ra từ nhau thai kích thích tinh hoàn sản xuất testosterone

Trong quá trình mang thai, HCG do rau thai tiết ra lưu hành ở cả cơ thể mẹ và thai. Hormone này có cùng tác dụng lên các cơ quan sinh dục của cơ thể như LH. Trong quá trình mang thai, nếu thai nhi là nam, hCG của nhau thai kích thích tinh hoàn tiết testosterone, Testosterone kích thích hình thành các cơ quan sinh dục nam như đã nói trước đó. Chúng tôi sẽ thảo luận về chức năng của hCG trong quá trình mang thai nhiều hơn trong chương 83.

Tuổi dậy thì và cơ chế khởi phát

Khởi đầu tuổi dậy thì như thế nào từ lâu đã là một điều bí ẩn, nhưng nó đã được xác định là do vùng dưới đồi không sản xuất một lượng GnRH thích hợp. Một trong những lý do của điều này là, trong suốt thời thơ ấu, sự tiết ra dù là nhỏ nhất của hormone sinh dục cũng gây ức chế tiết GnRH. Tuy nhiên, vì lý do gì chưa rõ, sự tiết GnRH trong tuổi dậy thì lại phá vỡ được sự ức chế trước đó, và bắt đầu đời sống tình dục ở người trưởng thành.

Đời sống sinh dục của nam giới và thời kì mãn kinh nam. Sau tuổi dậy thì, hormone gonadotropic vẫn được sản xuất trong suốt cuộc đời còn lại, và sự sinh tinh vẫn còn tiếp tục cho đến lúc chết. Tuy nhiên, hầu hết đàn ông sẽ suy giảm từ từ chức năng sinh dục của họ vào những năm 50 hay 60 của cuộc đời. Sự suy giảm này có sự khác biệt đáng kể ở những người vẫn còn khả năng cương dương ở tuổi 80 hay 90.

Sự suy giảm chức năng sinh dục này được cho là do sự suy giảm sản xuất testosterone, như thể hiện trong hình. Sự suy giảm chức năng sinh dục nam được gọi là mãn kinh nam. Đôi khi mãn kinh nam cũng đi kèm với các triệu chứng như cơn nóng bừng, nghẹt thở, rối loạn tâm lý cảm xúc giống thời kì mãn kinh ở nữ giới. Nhưng triệu chứng này có thể khắc phục nhờ testosterone tổng hợp, hoặc thậm trí là estrogen dùng để điều trị triệu chứng mãn kinh ở nữ.

Bài viết cùng chuyên mục

Cung lượng tim: nghiên cứu định lượng

Tăng khả năng bơm máu cùng với tăng áp suất khoang màng phổi làm cung lượng tim đạt đỉnh vì tăng hoạt động tim nhưng đường cong lại dịch sang phải vì áp suất khoang màng phổi tăng.

Cảm giác thân thể: con đường dẫn truyền vào hệ thần kinh trung ương

Các thông tin cảm giác từ các phân đoạn thân thể của cơ thể đi vào tủy sống qua rễ sau của dây thần kinh sống. Từ vị trí đi vào tủy sống và sau là đến não, các tín hiệu cảm giác được dẫn truyền qua một trong 2 con đường thay thế.

Vòng phản xạ thần kinh: với các tín hiệu đầu ra kích thích và ức chế

Các sợi đầu vào kích thích trực tiếp lên đường ra kích thích, nhưng nó kích thích một nơ-ron ức chế trung gian (nơron 2), là nơ-ron tiết ra một loại chất dẫn truyền thần kinh khác để ức chế đường ra thứ hai từ trạm thần kinh.

Sinh lý hoạt động ức chế

Mỗi khi có một kích thích mới và lạ, tác động cùng một lúc với kích thích gây phản xạ có điều kiện, thì phản xạ có điều kiện đó không xuất hiện.

Tế bào ung thư ở cơ thể người

Xét rằng hàng nghìn tỷ tế bào mới được hình thành mỗi năm ở người, một câu hỏi hay hơn có thể được hỏi tại sao tất cả chúng ta không phát triển hàng triệu hay hàng tỷ tế bào đột biến ung thư.

Cơ tâm thất của tim: sự dẫn truyền xung động

Các cơ tim bao phủ xung quanh tim trong một xoắn kép, có vách ngăn sợi giữa các lớp xoắn; do đó, xung động tim không nhất thiết phải đi trực tiếp ra ngoài về phía bề mặt của tim.

Áp suất thủy tĩnh của dịch kẽ

Trong hầu hết các hốc tự nhiên của cơ thể, nơi có dịch tự do ở trạng thái cân bằng động với chất lỏng xung quanh, những áp lực đo được là âm.

Cân bằng dinh dưỡng trong cơ thể

Ngay lập tức sau một bữa ăn gồm cả carbohydrates, protein và chất béo, phần lớn thức ăn được chuyển hóa là carbohydrates, vì thế thương số hô hấp tại thời điểm đó tiệm cận một.

Tế bào cơ thể người chết theo chương trình: Apoptosis

Ngay cả ở người trưởng thành, tỷ tế bào chết mỗi giờ trong các mô như ruột và tủy xương và được thay thế bằng tế bào mới. Lập trình chết tế bào, tuy nhiên, thường là sự cân bằng sự hình thành các tế bào mới ở người trưởng thành khỏe mạnh.

Sự sinh tinh và sinh lý của tinh trùng người

Sự sinh tinh xảy ra ở ống sinh tinh nhờ sự điều hòa của các hormon điều hòa sinh dục của tuyến yên. Sự sinh tinh bắt đầu vào khoảng 13 tuổi và kéo dài trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời nhưng giảm đi rõ rệt khi về già.

Ngoại tâm thu nhĩ: rối loạn nhịp tim

Khi tim co sớm hơn bình thường, tâm thất chưa nhận đầy máu như bình thường và nhát bóp đó bơm ít máu hơn. Do đó sóng đập của nhát bóp đó lên thành mach sẽ yếu hơn thậm chí là yếu đến mức không thể bắt được gọi làm mạnh chìm.

Vai trò và chức năng của Protein huyết tương

Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô, khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng.

Phát hiện mầu sắc bằng tương phản mầu sắc

Cơ chế của phân tích phát hiện màu sắc phụ thuộc vào sự tương phản màu sắc, gọi là “đối thủ màu sắc”, kích thích các tế bào thần kinh đặc hiệu.

Điều hòa vận động: vai trò của phản xạ căng cơ

Phản xạ căng cơ có thể chia làm 2 loại: động và tĩnh. Phản xạ động là phản xạ sinh ra từ đáp ứng động của suốt cơ, gây ra bởi sự căng ra hay co lại một cách nhanh chóng.

Block nhĩ thất không hoàn toàn: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Một điện tâm đồ có P-R kéo dài khoảng 0.3s thay vì bình thường khoảng 0,2s hoặc ít hơn. Do đó, block độ 1 được định nghĩa là sự chậm dẫn truyền từ nhĩ đến thất chứ không phải mất hẳn dẫn truyền.

Quan hệ giữa vỏ não với đồi thị và trung tâm dưới vỏ về giải phẫu và chức năng

Các vùng của vỏ não liên hệ với các khu vực cụ thể của đồi thị. Những liên hệ này hoạt động theo hai chiều, gồm cả hướng từ đồi thị tới vỏ não và cả từ vỏ não trở lại, về cơ bản, cùng một khu vực đồi thị.

Tác dụng ngoài nhân của Aldosterol và các hormon steroid khác

Tác động ngoài nhân này do gắn với steroid trên reeceptor màng tế bào mà được cùng với các hệ thống truyền tin thứ hai, tương tự như dùng truyền tín hiệu của hormon peptid.

Sinh lý phản xạ có điều kiện và không điều kiện

Bằng những công trình nghiên cứu trên hệ thần kinh trong nhiều năm, Pavlov đã phân biệt hai loại phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.

Các hệ thống kiểm soát Cortisol

Feedback của cortisol cho cả vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên cũng xảy ra để làm giảm nồng độ cortisol trong huyết tương ở những lần cơ thể không bị stress.

Bài tiết chất nhầy ở đại tràng

Chất nhày ở đại tràng bảo vệ thành ruột chống lại sự xây xát, nhưng thêm vào đó, chúng là một chất kết dính giúp gắn kết các phần của phân lại với nhau.

Các phản xạ tự chủ của hệ thần kinh

Nhiều chức năng nội tạng của cơ thể được điều chỉnh bởi các phản xạ tự chủ. Một vài phản xạ của hệ tim mạch giúp kiểm soát huyết áp động mạch và tần số tim. Một trong nhưng phản xạ đó là phản xạ baroreceptor.

Các yếu tố ruột ức chế bài tiết dịch dạ dày

Dạ dày bài tiết một ít ml dịch vị mỗi giờ trong suốt giai đoạn giữa các lần phân giải thức ăn, khi mà có ít hoặc không có sự tiêu hóa diễn ra ở bất cứ vị trí nào của ruột.

Điều hòa bài tiết cortisol ở vỏ thượng thận do tuyến yên

ACTH kích thích kiểm soát bài tiết của vỏ thượng thận là kích hoạt các protein enzyme kinase A, làm chuyển hóa ban đầu của cholesterol thành Pregnenolone.

Sinh lý nội tiết tuyến giáp

Tuyến giáp nằm trước khí quản, dưới sụn giáp, nặng 20-25g, gồm 2 thùy, có eo ở giữa, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2cm. Cấu trúc gồm nhiều nang giáp, trong chứa đầy dịch keo, xen lẫn hệ thống mạch máu rất phong phú (1% lưu lượng tim), ở đây tổng hợp và dự  trữ hormon T3, T4.

Đồi thị: chức năng thị giác của nhân gối bên sau

Chức năng chính của nhân gối bên sau là “cổng” dẫn truyền tín hiệu tới vỏ não thị giác, tức là để kiểm soát xem có bao nhiêu tín hiệu được phép đi tới vỏ não.