Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi

2020-08-19 11:50 AM

Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Cung lượng tim: là thể tích máu được tim bơm vào động mạch chủ mỗi phút, đó cũng đồng thời là thể tích máu lưu thông trong vòng tuần hoàn chung của cơ thể. Cung lượng tim là một trong những yếu tố quan trọng của vòng tuần hoàn bởi nó đánh giá tổng lượng máu cung cấp cho tất cả các mô trong cơ thể.

Tuần hoàn tĩnh mạch: là thể tích máu ngoại vi được đưa về tim qua tâm nhĩ mỗi phút. Tuần hoàn tĩnh mạch và cung lượng tim phải cân bằng nhau chỉ trừ trong một vài nhịp đập khi máu đổ về và tống đi tạm thời tại tim và phổi.

Tuần hoàn tĩnh mạch là tổng tất cả các dòng máu lấy từ các mô cơ thể thông qua hệ tuần hoàn ngoại vi.

Vì vậy sự thay đổi cung lượng tim cũng dẫn đến thay đổi tuần hoàn ngoại vi.

Quy luật của thay đổi tuần hoàn ngoại vi, ở hầu hết các mô, tuần hoàn máu tăng chủ yếu phụ thuộc vào phần trăm chuyển hóa từng mô. Ví dụ: tuần hoàn ngoại vi tăng khi nhu cầu O2 của mô tăng, với các điều kiện thể lực khác nhau. Chú ý rằng với mỗi cường độ hoạt động thể lực nhất định .Mức tiêu thụ CO2 và cung lượng tim tăng tỉ lệ thuận với nhau.

Tóm lại, cung lượng tim xác định bằng tổng hòa các yếu tố điều hòa tuần hoàn ngoại vi. Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.

Cung lượng tim bằng tuần hoàn tĩnh mạch

Hình. Cung lượng tim bằng tuần hoàn tĩnh mạch và cũng là tổng lượng máu ngoại vi qua mô, cơ quan.

Hoạt động thể lực làm tăng cung lượng tim

Hình. Hoạt động thể lực làm tăng cung lượng tim (đường đỏ) và tăng nhu cầu oxy (đường xanh).

Cung lượng tim tỉ lệ nghịch với sức cản ngoại vi khi huyết áp động mạch không đổi

Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kiểm soát cung lượng tim: sự thay đổi cung lượng tim tỉ lệ nghịch với sức cản ngoại vi khi huyết áp không đổi. Chú ý rằng khi sức cản ngoại vi bình thường (ở mức 100%) cung lượng tim cũng không thay đổi, khi tim hoạt động hiệu quả tốt hơn, lượng tống máu nhiều hơn bình thường và ngược lại.

Ảnh hưởng mãn tính của sức cản ngoại vi

Hình. Ảnh hưởng mãn tính của sức cản ngoại vi trên cung lượng tim, cho thấy mối quan hệ qua lại giữa tổng sức cản ngoại vi và cung lượng tim. AV, nhĩ thất.

Khi sức cản ngoại vi tăng cung cung lượng tim giảm và ngược lại. Hiện tượng này có thể giải thích thông qua quy luật Ohm.

Cung lượng tim = (huyết áp động mạch)/(tổng sức cản ngoại vi)

Vì vậy, mỗi khi sức cản tuần hoàn ngoai vi thay đổi với các yếu tố chức năng khác hằng định thì cung lượng tim thay đổi tỉ lệ nghịch tương ứng.

Tim có thể trở thành các yếu tố ức chế cung lượng tim

 Lượng máu do tim có thể bơm được biểu thị thông qua thể tích được gọi là đường cong cung lượng tim sinh lý.

Ở hình biểu diễn cung lượng tim mỗi phút ở các mức áp lực tâm nhĩ phải khác nhau. Đó cũng là một dạng đường cong chức năng tim. Chú ý rằng cung lượng tim có thể đạt mức 13lít/ phút gấp 2,5 lần cung lượng tim sinh lý 5 lít/ phút vẫn được coi là bình thường. Điều đó có nghĩa với một người khỏe mạnh tim hoạt động ở mức không chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kích thích, có thể bơm 1 lượng máu vào tuần hoàn chung gấp 2,5 lần bình thường trước khi tim trở thành yếu tố giới hạn cung lượng tim.

Hình còn chỉ ra các đường cong cung lượng tim khi tim hoạt động không sinh lý.

Đường cong cung lượng tim bình thường

Hình. Đường cong cung lượng tim bình thường, và khi tăng, giảm hiệu quả tống máu của tim.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động hiệu quả của tim

Hai yếu tố làm tim bơm máu tốt hơn (1) kích thích thần kinh (2) sự giãn nở các dẫn cơ tim.

Kích thích thần kinh làm tăng nhịp tim

Kích thích giao cảm và ức chế phó giao cảm là hai yếu tố làm tăng hiệu quả hoạt động của tim (1) tăng nhịp tim, ở người trẻ nhịp tim bình thường là 72 nhịp/phút có thể tăng đến 180- 200 nhịp/phút (2) tăng lực co cơ tim (có thể gấp 2 lần lực co tim bình thường). Sự kết hợp của hai yếu tố, một kích thích thần kinh cực đại làm cung lượng tim đạt đỉnh gấp 2 lần bình thường Ở đường cong cung lượng tim cao nhất với 25l/phút.

Sự giãn nở tim làm tăng hiệu quả bơm máu

Sự giãn nở tim trong một thời gian dài có thể tăng hiệu quả tim, nhưng không hoạt động quá sức vì có thể ảnh hưởng đến chức năng tim vì sự giãn nở làm sợi cơ tim tăng khối lượng và lực co,tương tự tập luyện thể lực giúp giãn nở cơ. Ví dụ với vận động viên maratông,tim có thể to hơn 50-70% so với bình thường. Yếu tố này co thể tăng đỉnh cung lượng tim lên 60 -100% và do đó có thể giúp tim có thể tống máu nhiều hơn bình thường.

Khi kết hợp kích thích thần kinh với phì đại cơ tim, ở các vận động viên điền kinh thì tim có thể bơm một thể tích máu từ 30 đến 40 L/phút, gấp 2,5 lần so với người bình thường. Tăng cung lượng tim cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng thời gian thi đấu của các vận động viên.

Yếu tố làm giảm hiệu suất hoạt động của tim

Mọi yếu tố làm giảm tổng lượng máu của tim đều gây ra giảm hiệu suất tim. Trong đó:

Tăng áp lực động mạch làm tim cần một lực lớn hơn tống máu, như tăng huyết áp ác tính.

Ức chế, kích thích thần kinh.

Yếu tố bênh học gây bất thường nhịp tim.

Nhồi máu cơ tim.

Bệnh van tim.

Bệnh tim bẩm sinh.

Viêm cơ tim.

Thiếu máu cơ tim.

Bài viết cùng chuyên mục

Trí nhớ ngắn hạn của con người

Nhiều nhà sinh lý học cho rằng loại trí nhớ ngắn hạn này do sự tiếp tục của hoạt động thần kinh từ tín hiệu các dây thần kinh đi vòng quanh và vòng quanh một dấu vết trí nhớ tạm thời ở một vòng của neuron phản xạ.

Hoạt động chuyển hóa tế bào của Aldosterol

Aldosterol không có tác dụng vận chuyển natri ngay lập tức; đúng hơn tác dụng này phải chờ hình thành liên tục những chất đặc biệt cần thiết vận chuyển natri.

Giải phẫu và chức năng sinh lý của vỏ não

Cấu trúc mô học điển hình của bề mặt vỏ não, với các lớp liên tiếp các loại tế bào thần kinh khác nhau. Hầu hết các tế bào thần kinh chia làm ba loại: tế bào dạng hạt, tế bào hình thoi, và tế bào hình tháp.

Dịch vào ra của cơ thể: cân bằng trong trạng thái ổn định

Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể.

Xác định hướng đến của âm thanh: cơ chế thính giác trung ương

Sự định hướng không gian của các tín hiệu sau đó sẽ được truyền tới vỏ não thính giác, nơi mà hướng của âm thanh được xác định bởi vị trí các tế bào thần kinh bị kích thích tối đa.

Hệ tuần hoàn: đặc tính sinh lý

Chức năng của động mạch là chuyển máu dưới áp lực đến mô. Để đảm bảo chức năng này, động mạch có thành dày, và máu di chuyển với tốc độ cao trong lòng động mạch.

Sinh lý nội tiết tuyến yên

Tuyến yên là một tuyến nhỏ, đường kính khoảng 1 cm, nằm trong hố yên của xương bướm, nặng 0,5g. Tuyến yên liên quan mật thiết với vùng dưới đồi qua đường mạch máu và đường thần kinh, đó là hệ thống cửa dưới đồi - yên.

Các chức năng sinh lý của gan

Gan tổng hợp acid béo từ glucid, protid và từ các sản phẩm thoái hóa của lipid, acid béo được chuyển hóa theo chu trình.

Rung nhĩ: rối loạn nhịp tim

Rung nhĩ có thể trở lại bình thường bằng shock điện. Phương pháp này về cơ bản giống hệt với shock điện khử rung thất- truyền dòng diện mạnh qua tim.

Sự thay đổi lưu lượng tuần hoàn trong luyện tập

Lúc bắt đầu luyện tập tín hiệu không chỉ truyền từ não đến cơ gây ra quá trình co cơ mà còn tác động lên trung tâm vận mạch thông qua hệ giao cảm đến các mô.

Trung tâm thần kinh điều khiển sự thèm ăn của cơ thể

Một số trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi tham gia vào kiểm soát sự ăn, nhân bên của vùng hạ đồi hoạt động như trung tâm nuôi dưỡng, và kích thích vào vùng này ở động vật gây ra chứng ăn vô độ.

Thành phần của hệ renin angiotensin

Khi huyết áp động mạch giảm, phản ứng nội tại trong thận tạo ra nhiều phân tử prorenin trong các tế bào cận cầu thận để phân cắt và giải phóng renin.

Hormone tuyến giáp làm tăng phiên mã số lượng lớn các gen

Hầu hết các tế bào cơ thể, lượng lớn các enzym protein, protein cấu trúc, protein vận chuyển và chất khác được tổng hợp, kết quả đều làm tăng hoạt động chức năng trong cơ thể.

Bạch huyết: các kênh bạch huyết của cơ thể

Hầu như tất cả các mô của cơ thể có kênh bạch huyết đặc biệt dẫn dịch dư thừa trực tiếp từ khoảng kẽ. Các trường hợp ngoại lệ bao gồm các phần của bề mặt da, hệ thống thần kinh trung ương, các màng của cơ bắp và xương.

Dẫn truyền synap: một số đặc điểm đặc biệt

Quá trình thông tin được truyền qua synap phải qua nhiều bước: đưa các bọc nhỏ xuống, hòa màng với màng của cúc tận cùng, chất truyền đạt giải phóng và khuếch tán trong khe synap, gắn với receptor ở màng sau synap, mở kênh ion gây khử cực màng.

Cấu tạo tế bào cơ thể người

Để hiểu được chức năng của các cơ quan và các cấu trúc khác của cơ thể, đầu tiên chúng ta cần hiểu được những cấu trúc cơ bản của tế bào và chức năng của những bộ phận cấu thành nên nó.

Sự hình thành lưu thông và hấp thu dịch não tủy

Dịch được bài tiết từ não thất bên đầu tiên đến não thất ba, sau khi bổ sung thêm một lượng nhỏ dịch từ não thất ba, chảy xuống qua công Sylvius vào não thất bốn, nơi một lượng nhỏ dịch tiếp tục được bài tiết thêm.

Trở kháng thành mạch với dòng máu của hệ tuần hoàn

Trở kháng là sự cản trở với dòng máu trong mạch, không thể đo bằng phương tiện trực tiếp, chỉ được tính từ những công thức, phép đo của dòng máu và sự chênh lệch áp lực giữa 2 điểm trên mạch.

Chức năng trí tuệ cao của vùng não liên hợp trước trán

Chức năng trí tuệ bị giới hạn, tuy nhiên vùng trước trán vẫn có những chức năng trí tuệ quan trọng. Chức năng được lý giải tốt nhất khi mô tả điều sẽ xảy ra khi bệnh nhân tổn thương vùng trước trán.

Sinh lý bệnh của hormon tuyến cận giáp và vitamin D

Canxi và phosphate không được giải phóng từ xương, xương hầu như vẫn giữ nguyên chắc khỏe. Khi các tuyến cận giáp đột nhiên bị lấy mất, ngưỡng canxi trong máu giảm và nồng độ phosphate trong máu co thể tăng gấp đôi.

Giải phẫu và sinh lý của tụy

Tụy tiết nhiều hormon, như amylin, somatostatin, và pancreatic polypeptide, chức năng của chúng chưa được biết rõ. Mục đích chính là bàn về vai trò sinh lý của insulin và glucagon và sinh lý bệnh của các bệnh lý.

Chuyển động mắt theo đuổi: chú ý các đối tượng chuyển động

Nếu một đối tượng chuyển động lên xuống kiểu sóng với tốc độ vài lần mỗi giây, mắt đầu tiên có thể không chú ý vào nó. Tuy nhiên, sau một giây hoặc lâu hơn, mắt bắt đầu cử động bằng cách giật.

Chu chuyển của tim

Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.

Trạm thần kinh: sự dẫn truyền và xử lý các tín hiệu

Hệ thần kinh trung ương bao gồm hàng nghìn đến hàng triệu trạm thần kinh; một số trạm chứa vài nơ-ron, trong khi những trạm khác chứa số lượng nơ-ron lớn.

Điều hòa bài tiết Aldosterol

Điều hòa bài tiết aldosterol ở tế bào lớp cầu gần như độc lập hoàn toàn với điều hòa bài tiết cảu costisol và androgen ở lớp bó và lớp lưới.