Chu kỳ nội mạc tử cung và hành kinh

2020-06-05 04:00 PM

Vào thời gian đầu của mỗi chu kì, hầu hết nội mạc đã bị bong ra trong kinh nguyệt. Sau kinh nguyệt, chỉ còn lại một lớp nội mạc mỏng và những tế bào biểu mô còn sót lại được dính với vị trí sâu hơn của các tuyến chế tiết và lớp dưới nội mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Liên quan với chu kì chế tiết của estrogen và progesterone ở buồng trứng là chu kì nội mạc ở lớp nội mạc tử cung và được chia thành những giai đoạn sau: (1) sự tăng sinh của nội mạc tử cung, (2) sự phát triển của các tuyến chế tiết trong niêm mạc và (3) sự bong ra của lớp nội mạc hay còn gọi là kinh nguyệt. Sự khác biệt của các giai đoạn được mô tả ở hình.

Các giai đoạn phát triển của nội mạc tử cung và sự hành kinh trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt

Hình. Các giai đoạn phát triển của nội mạc tử cung và sự hành kinh trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt.

Giai đoạn tăng sinh (giai đoạn estrogen) của chu kì nội mạc, xảy ra trước khi rụng trứng

Vào thời gian đầu của mỗi chu kì, hầu hết nội mạc đã bị bong ra trong kinh nguyệt. Sau kinh nguyệt, chỉ còn lại một lớp nội mạc mỏng và những tế bào biểu mô còn sót lại được dính với vị trí sâu hơn của các tuyến chế tiết và lớp dưới nội mạc. Dưới ảnh hưởng của estrogen, được tiết ra ở buồng trứng với một lượng ngày càng nhiều trong giai đoạn đầu tiên của chu kì buồng trứng, các tế bào đệm và tế bào biểu mô tăng sinh nhanh chóng. Bề mặt nội mạc tử cung được hồi phục trong vòng 4-7 ngày sau khi xuất hiện kinh nguyệt.

Sau đó, trong 1,5 tuần tiếp theo, trước khi sự rụng trứng diễn ra, lớp nội mạc dày lên cực đại, lý do là tăng số lượng các tế bào đệm và sự tăng trưởng cực đại của các tuyến nội mạc cùng với sự tăng sinh mạch máu vào trong nội mạc tử cung. Khi sự rụng trứng diễn ra, nội mạc tử cung dày khoảng 3-5mm.

Các tuyến nội mạc, đặc biệt là các tuyến ở vùng cổ tử cung, chế tiết chất nhầy loãng. Dịch nhầy này thực tế xếp thành hàng suốt chiều dài ống cổ tử cung, tạo nên một rãnh giúp cho tinh trùng di chuyển đúng đường từ âm đạo lên tử cung.

Giai đoạn chế tiết (giai đoạn progesterone) của chu kì nội mạc, xảy ra sau khi rụng trứng

Trong hầu hết nửa sau chu kì, sau khi sự rụng trứng diễn ra, progesterone và estrogen cùng được tiết ra với lượng rất lớn từ hoàng thể. Estrogen gây ra sự tăng sinh nhẹ của các tế bào nội mạc trong chu kì, trong khi progesterone có tác dụng rõ rệt lên sự căng lên và tăng chế tiết của lớp nội mạc. Các tuyến ngày càng xoắn lại, và chất tiết thừa ra tích lũy lại trong các tế bào niêm mạc.

Thêm vào đó, lượng tế bào chất của các tế bào đệm cũng tăng lên, chất béo và glycogen lắng đọng nhiều vào các tế bào đệm, và các mạch máu cấp máu cho nội mạc cũng tăng sinh hơn nữa để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động chế tiết diễn ra, và các mạch máu cũng xoắn nhiều hơn. Vào mức đỉnh điểm của giai đoạn chế tiết, khoảng 1 tuần sau khi trứng rụng, nội mạc tử cung dày khoảng 5-6mm.

Toàn bộ mục đích của những sự biến đổi là để tạo ra lớp nội mạc chế tiết mạnh mẽ chứa một lượng lớn chất dinh dưỡng để cung cấp trong điều kiện phù hợp cho sự làm tổ của trứng sau khi thụ tinh trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt. Từ lúc hợp tử đi vào buồng tử cung từ ống Fallope (xảy ra 3-4 ngày sau khi trứng rụng) đến lúc hợp tử làm tổ (7-9 ngày sau khi rụng trứng), sự chế tiết của nộ mạc tử cung, hay còn gọi là “sữa tử cung”, cung cấp dinh dưỡng cho giai đoạn đầu của sự phân bào của hợp tử.

Sau đó, một khi hợp tử đã làm tổ vào nội mạc, các tế bào lá nuôi trên bề mặt bắt đầu sử dụng các chất dinh dưỡng được chứa trong lớp nội mạc, do đó việc tạo ra một lượng lớn chất dinh dưỡng và rất trong giai đoạn đầu của phôi.

Hành kinh

Nếu trứng không được thụ tinh, khoảng 2 ngày trước khi kết thúc chu kỳ kinh nguyệt, thể vàng ở buồng trứng thoái hóa và các hormone buồng trứng (estrogen và progesterone) giảm xuống mức thấp nhất. Sau đó hành kinh xảy ra.

Hành kinh là do sự suy giảm của estrogen và progesterone, đặc biệt là progesterone, vào cuối chu kì buồng trứng. Ảnh hưởng đầu tiên là giảm kích thích của 2 hormone này lên lớp nội mạc, theo sau đó là sự teo đi nhanh chóng của lớp nội mạc khoảng 65% so với độ dày trước đó. Sau đó, trong 24 giờ trước khi hành kinh, các mạch máu xoắn làm cho lớp té bào nội mạc bị co thắt, chính xác là do một số ảnh hưởng của sự co nhỏ, như sự giải phóng chất gây co mạch- có lẽ một trong các loại chất co mạch của prostaglandin xuất hiện nhiều hơn vào thời điểm này.

Sự co mạch làm hạn chế sự cung cấp dinh dưỡng cho lớp nội mạc tử cung, thêm vào đó là mất đi sự kích thích của các hormone khởi động quá trình hoại tử lớp nội mạc, đặc biệt ở các mạch máu. Do đó, đầu tiên máu bị rỉ vào lớp mạch máu nội mạc, và vùng xuất huyết lan rộng rất nhanh trong 24- 36 giờ. Dần dần, lớp nội mạc hoại tử bị bong ra khỏi tử cung ở những vị trí xuất huyết cho đến 48 giờ sau khi bắt đầu hành kinh, tất cả lớp bề mặt nội mạc đều bị bong hết. Khối gồm mô nội mạc bị bong và các mạch máu bị hoại tử trong buồng tử cung, cộng thêm tác dụng làm co mạch của prostaglandin hoặc một số chất bong ra phân hủy, tất cả hoạt động phối hợp, làm cho tử cung co lại tống các chất trong tử cung ra ngoài.

Bình thường trong giai đoạn hành kinh, có khoảng 40ml máu và 35ml huyết tương bị mất. Máu kinh bình thường là máu không đông bởi vì sự phân hủy fibrin đã xảy ra trong quá trình hoại tử lớp nội mạc. Nếu máu chảy nhiều từ nội mạc tử cung, sự phân hủy fibrin không đủ nên vẫn còn cục máu đông thoát ra ngoài. Sự xuất hiện của cục máu đông trong chu kỳ kinh nguyệt thường là một biểu hiện bệnh lý của tử cung.

Trong vòng 4-7 ngày sau khi bắt đầu hành kinh, sự mất máu ngừng lại bởi vì khi đó, nội mạc tử cung đang được tái tạo trở lại.

Khí hư trong giai đoạn hành kinh

Trong chu kỳ kinh nguyệt, một số lượng rất lớn bạch cầu được tiết ra trong quá trình hoại tử và xuất huyết. Chắc chắn một số chất giải phóng từ sự hoại tử lớp nội mạc dẫn đến sự thoát ra của bạch cầu. Kết quả của những bạch cầu này và có thể một số yếu tố khác, tử cung rất bền vững với nhiễm khuẩn trong giai đoạn hành kinh, dù lớp bề mặt nội mạc bị bong hết. Do đó nó có giá trị bảo vệ rất lớn.

Bài viết cùng chuyên mục

RNA được tổng hợp trong nhân từ khuôn của DNA

Trong tổng hợp RNA, hai sợi của phân tử ADN tách ra tạm thời; một trong hai sợi được sử dụng như là một khuôn mẫu để tổng hợp một phân tử RNA. Các mã bộ ba trong DNA là nguyên nhân của sự hình thành các bộ ba bổ sung trong RNA.

Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường

Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.

Chức năng của túi tinh

Tinh dịch có chứa nhiều fructose và nhiều chất dinh dưỡng khác đảm bảo nuôi dưỡng tinh trùng từ lúc xuất tinh đến khi một trong số chúng có thể thụ tinh với trứng.

Điện thế hoạt động của tế bào thần kinh

Để tạo ra những tín hiệu thần kinh, điện thế hoạt động di chuyển dọc theo tế bào sợi thần kinh cho tới điểm kếtthúc của nó.

Cấu trúc vi tuần hoàn và hệ mao mạch

Tại nơi mỗi mao mạch bắt nguồn từ một tiểu động mạch, chỉ còn một sợi cơ trơn thường vòng từng quãng quanh các mao mạch. Cấu trúc này được gọi là cơ thắt trước mao mạch.

Hormon tuyến giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa tế bào

Hormon tuyến giáp tăng hoạt động chuyển hóa ở hầu hết tất cả các mô trong cơ thể. Mức chuyển hóa cơ sở có thể tăng 100 phần trăm trên mức bình thường nếu hormon tuyến giáp được bài tiết nhiều.

Thành phần dịch trong cơ thể người

Ở người trưởng thành, tổng lượng dịch trong cơ thể khoảng 42L, chiếm 60% trọng lượng. Tỉ lệ này còn phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và thể trạng từng người.

Các receptor ở các cơ quan đích hệ giao cảm và phó giao cảm

Các receptor nằm ở mặt ngoài của màng tế bào. Sự bám của các chất dẫn truyền thần kinh vào các receptor gây ra sư thay đổi về hình dạng trong cấu trúc của phân tử protein. Kế tiếp, phân tử protein bị biến đổi sẽ kích thích hoặc ức chế tế bào.

Ảnh hưởng của ion kali và canxi trong hoạt động của tim

Khi có nồng độ cao kali trong dịch ngoại bào sẽ một phần khử cực màng tế bào, làm điện thế màng bớt âm. Khi điện thế màng giảm, cường độ điện thế hoạt đọng cũng giảm, làm cho sự co bóp cơ tim yếu dần.

Tăng lưu lượng tim và tăng huyết áp: vai trò của thần kinh xương và thần kinh cơ xương

Mặc dù hoạt động thần kinh điều khiển tuần hoàn nhanh nhất là qua hệ thần kinh tự chủ, nhưng một vài trường hợp hệ thần kinh cơ xương lại đóng vai trò chính trong đáp ứng tuần hoàn.

Áp dụng nguyên lý khúc xạ cho các thấu kính: nguyên lý quang học nhãn khoa

Các tia sáng song song đang đi vào một thấu kính lồi. Các tia sáng đi xuyên qua đúng điểm trung tâm của thấu kính sẽ vuông góc với bề mặt kính, nên vì thế, nó xuyên qua thấu kính mà không bị đổi hướng.

Kiểm soát hoạt động của trung tâm hô hấp và các tín hiệu ức chế hít vào

Tính tới thời điểm này, đã biết về các cơ chế cơ bản tạo ra hiện tượng hít vào và thở ra, nhưng cũng rất cần tìm hiểu xem làm thế nào cường độ tín hiệu điều hòa có thể làm tăng hoặc giảm thông khí theo như cầu của cơ thể.

Hoạt động tình dục của phụ nữ

Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.

Ống bán khuyên nhận biết sự quay đầu

Khi dừng quay đột ngột, những hiện tượng hoàn toàn ngược lại xảy ra: nội dịch tiếp tục quay trong khi ống bán khuyên dừng lại. Thời điểm này, vòm ngả về phía đối diện, khiến tế bào lông ngừng phát xung hoàn toàn.

Sóng vận mạch huyết áp: dao động của hệ thống điều chỉnh phản xạ huyết áp

Khoảng thời gian cho mỗi chu kỳ là 26 giây đối với chó đã gây mê, 7-10 giây ở người không gây mê. Sóng này được gọi là sóng vận mạch hay sóng Mayer.

Dẫn truyền synap: một số đặc điểm đặc biệt

Quá trình thông tin được truyền qua synap phải qua nhiều bước: đưa các bọc nhỏ xuống, hòa màng với màng của cúc tận cùng, chất truyền đạt giải phóng và khuếch tán trong khe synap, gắn với receptor ở màng sau synap, mở kênh ion gây khử cực màng.

Tỷ lệ thay đổi hô hấp: thương số hô hấp

Khi O2 phản ứng với chất béo, một phần lớn của O2 kết hợp với các nguyên tử H+ từ các chất béo để tạo thành H2O thay vì CO2. Nói cách khác, khi chất béo được chuyển hóa.

Vai trò của hải mã trong học tập

Hải mã bắt nguồn như một phần của vỏ não thính giác. Ở nhiều động vật bậc thấp, phần vỏ não này có vai trò cơ bản trong việc xác định con vật sẽ ăn thức ăn ngon hay khi ngửi thấy mùi nguy hiểm.

Cấu tạo cơ bản của một tế bào động vật

Các bào quan và thể vùi nằm lơ lững trong dịch tế tương. Từ bào tương (cytoplasm) dùng để bao hàm cả dịch tế bào, tất cả các bào quan.

Cơ chế co cơ trơn

Một đặc tính quan trọng khác của cơ trơn, đặc biệt là loại cơ trơn đơn nhất nội tạng của nhiều cơ quan rỗng, là khả năng quay trở lại gần như lực co bóp ban đầu của nó vài giây hoặc vài phút sau khi nó bị kéo dài hoặc rút ngắn.

Dậy thì và kinh nguyệt ở phụ nữ

Người ta cho rằng sự khởi động giai đoạn dậy thì được kích thích bởi các quá trình hoàn thiện xảy ra tại một vùng khác ở não, có thể ở đâu đó trên hệ viền.

Hoạt động chuyển hóa tế bào của Aldosterol

Aldosterol không có tác dụng vận chuyển natri ngay lập tức; đúng hơn tác dụng này phải chờ hình thành liên tục những chất đặc biệt cần thiết vận chuyển natri.

Hormon điều hòa hoạt động của não

Bên cạnh điều khiển điều hòa hoạt động của não bởi xung động thần kinh, còn cơ chế sinh lý khác. Cơ chế này là tiết các hormon kích thích hay ức chế chất dẫn truyền thần kinh đến bề mặt não.

Động tác bước và đi bộ: phản xạ tư thế

Các thông tin cảm giác từ bàn chân hay cảm giác tư thế từ các khớp đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển áp lực bàn chân và bước đi liên tục.

Sinh lý tuần hoàn địa phương (mạch vành, não, phổi)

Động mạch vành xuất phát từ động mạch chủ, ngay trên van bán nguyệt. Động mạch vành đến tim, chia thành động mạch vành phải và trái. Động mạch vành trái cung cấp máu cho vùng trước thất trái và nhĩ trái.