- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh
- Chấn thương đầu
Chấn thương đầu
Chụp sọ thường và chụp cắt lớp sọ có thể thấy vỡ xương. Do chấn thương đốt sống có thể xảy ra trong chấn thương đầu nên cần chụp đốt sống cổ ở bệnh nhân hôn mê.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chấn thương là nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong ở người trẻ, và chấn thương đầu chiếm một nửa trong số các chấn thương gây tử vong. Tiên lượng sau chấn thương đầu phụ thuộc vào vị trí và mức độ tổn thương não. Tình trạng ý thức giúp cho tiên lượng vì mất ý thức trên một hoặc hai phút nói lên tiên lượng nặng nề hơn các dấu hiệu khác. Tương tự, mức độ suy sụp và mất trí nhớ sau chấn thương chỉ ra một chấn thương nặng và có tiên lượng xấu. Không có vỡ xương sọ cũng không loại trừ khả năng chấn thương nặng của đầu. Khi thăm khám cần phải đánh giá mức độ ý thức và phạm vi của rối loạn thân não.
Chú ý: bệnh nhân mất ý thức trên 2 phút sau chấn thương đầu cần phải đưa vào viện để theo dõi, những bệnh nhân có dấu hiệu khu trú, ngủ lịm, hoặc vỡ xương sọ cũng phải đưa vào viện theo dõi. Nếu không đưa vào viện những người có trách nhiệm trong gia đình cần được hướng dẫn một cách cẩn thận về sự cần thiết và cách kiểm tra người bệnh thường xuyên (hàng giờ) và hỗ trợ y tế nếu cần.
Chụp sọ thường và chụp cắt lớp sọ có thể thấy vỡ xương. Do chấn thương đốt sống có thể xảy ra trong chấn thương đầu nên cần chụp đốt sống cổ (đặc biệt tư thế nghiêng) ở bệnh nhân hôn mê, và ở bệnh nhân đau dữ dội vùng cổ hoặc có các dấu hiệu thần kinh có thể do ép tủy. Chụp cắt lớp sọ não có vai trò quan trọng trong chẩn đoán chảy máu não và có thể thấy phù não và di lệch đường giữa.
Chấn thương sọ não
Chấn thương sọ não và biện pháp điều trị được tóm tắt ở bảng. Tăng áp lực nội sọ có thể do tắc nghẽn thông khí, vị trí bất thường của cổ, động kinh, hạ natri máu, hoặc phù não, một khối máu tụ nội sọ cần phẫu thuật lấy máu tụ cũng có thể gây tăng áp lực nội sọ. Các phương pháp khác để làm giảm áp lực nội sọ gồm tăng thông khí, truyền mannitol, tiêm furosemid tĩnh mạch; corticosteroid không có tác dụng trong trường hợp này.
Rách da đầu và vỡ xương sọ
Rách da đầu và lún sọ hoặc lún do vỡ xương sọ cần điều trị ngoại khoa thích hợp. Vỡ xương sọ đơn thuần không cần điều trị đặc hiệu. Dấu hiệu lâm sàng của vỡ nền sọ gồm tím quanh hốc mắt (dấu hiệu đeo kính râm), chảy máu ở ống tai ngoài (dấu hiệu Battle), và chảy dịch não tủy (được xác định bằng nồng độ glucose) ở tai hoặc mũi. Liệt các dây thần kinh sọ, đặc biệt là dây I, II, III, IV, V, VII và dây VIII. Có thể tổn thương một hay nhiều dây.
Nếu rò dịch não tủy thì điều trị bảo tồn bằng nâng cao đầu, hạn chế dịch vào cơ thể, và dùng acetazolamid (250 mg ngày 4 lần) thường có tác dụng; nếu vẫn tiếp tục rò sau vài ngày thì có thể dẫn lưu dịch não tủy ở thắt lưng. Dùng kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn, dựa vào cây và kháng sinh đồ, chỉ có một số ít các trường hợp là cần phải khâu màng cứng bị rách do rò dịch kéo dài hoặc viêm màng não tái phát.
Bảng. Các di chứng của não trong chấn thương sọ
Các biến chứng muộn của chấn thương đầu
Mối liên quan của chảy máu mạn tính dưới màng cứng với chấn thương đầu thường là không rõ. Ở rất nhiều người già không có tiền sử chấn thương, nhưng ở các trường hợp khác một chấn thương đầu thường là không nặng lắm xảy ra trước khi có các triệu chứng của tụ máu mạn tính dưới màng cứng vài tuần. Biểu hiện lâm sàng thường là thay đổi ý thức như là chậm chạp, ngủ gà, đau đầu, lú lẫn, rối loạn trí nhớ, thay đổi nhân cách, hoặc thậm chí là sa sút trí tuệ. Dấu hiệu thần kinh khu trú như liệt nửa người, hoặc rối loạn cảm giác nửa người cũng có thể có nhưng ít gặp hơn. Chụp cắt lớp sọ có ý nghĩa quan trọng cho việc phát hiện máu tụ. Điều trị bằng mổ lấy máu tụ để ngăn ngừa chèn ép não và thoát vị não. Não úng thủy áp lực bình thường có thể xảy ra sau chấn thương đầu cũng như chảy máu dưới nhện, hoặc viêm não màng não.
Các biến chứng muộn khác của chấn thương đầu gồm động kinh sau chấn thương và đau đầu sau chấn thương.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh Huntington
Múa giật xảy ra ở bệnh nhân không có tiền sử gia đình về múa vờn múa giật thì có lẽ không phải là bệnh Huntington ít ra cho tới khi các nguyên nhân khác được loại trừ trên lâm sàng và bằng xét nghiệm.
Giật rung cơ
Giật cơ có thể đáp ứng với một số thuốc chống động kinh, đặc biệt là acid valproic hoặc một số thuốc nhóm benzodiazepin, đặc biệt là clonazepam.
Bệnh lý thần kinh ngoại biên
Các dây thần kinh có thể bị tổn thương hoặc bị ép do các cấu trúc giải phẫu xung quanh trên dọc đường đi ở bất cứ điểm nào. Bệnh đơn dây thần kinh thường gặp của loại này được nói đến ở dưới đây.
Nhồi máu não
Huyết khối mạch hoặc nghẽn mạch làm tắc một mạch máu lớn gây nên nhồi máu não. Nguyên nhân của nhồi máu não là hậu quả của thiếu máu não thoáng qua và xơ vữa của các động mạch não.
Tổn thương choán chỗ nội sọ ở bệnh nhân AIDS
Viêm màng não do cryptococcus là một nhiễm trùng cơ hội hay gặp ở bệnh nhân AIDS. Bệnh cảnh lâm sàng có thể tương tự như nhiễm toxoplasma não hoặc u lympho não nhưng chụp cắt lớp sọ thường là bình thường.
Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay và thắt lưng
Ép các rễ thần kinh C8 và T1 hoặc thân đám rối thần kinh cánh tay do xương sườn cổ hoặc bó xơ phát sinh từ đốt sống cổ 7 dẫn đến yếu cơ và nhược cơ bàn tay.
U tủy nguyên phát và di căn
Chụp cột sống thường có thể là bình thường. nhưng cũng có thể thấy bất thường của di căn, chụp cắt lớp tủy, và cộng hưởng từ tủy, để chẩn đoán xác định u tủy và vị trí chèn ép tủy.
Bệnh tủy do Virus gây bệnh bạch cầu Lympho T ở người
Hầu hết các bệnh nhân không có triệu chứng nhưng sau giai đoạn tiềm tàng (có thể là vài năm) sẽ xuất hiện bệnh tủy ở một số trường hợp.
Bệnh não Wernicke
Trong các trường hợp nghi ngờ, truyền tĩnh mạch thiamin sau đó tiêm bắp hàng ngày cho tới khi chế độ ăn đầy đủ. Truyền tĩnh mạch glucose trước khi dùng thiamin.
Phình động mạch nội sọ
Điều trị triệt để là phẫu thuật kẹp cuống túi phình. Nếu không thể phẫu thuật được, điều trị nội khoa như chảy máu dưới màng nhện trong khoảng 6 tuần và sau đó vận động dần dần.
Trạng thái sững sờ và hôn mê
Việc chẩn đoán ở bệnh nhân hôn mê cần phải tiến hành đồng thời với điều trị. Điều trị hỗ trợ hô hấp và huyết áp được đặt lên hàng đầu; ở bệnh nhân hạ thân nhiệt tất cả các dấu hiệu sống.
Dị dạng thông động tĩnh mạch
Dị dạng thông động tĩnh mạch là dị tật mạch máu bẩm sinh do sự phát triển bất thường tại chỗ của đám rối mạch nguyên thủy làm cho động mạch thông với tĩnh mạch không qua hệ thống mao mạch.
Giả u não: tăng áp lực nội sọ lành tính
Huyết khối của xoang tĩnh mạch ngang, một biến chứng không do nhiễm khuẩn của viêm tai giữa hoặc viêm xương chũm mạn tính là một nguyên nhân.
Huyết khối tĩnh mạch nội sọ
Huyết khối tĩnh mạch nội sọ có thể xảy ra trong viêm nhiễm nội sọ hoặc vùng hàm mặt, tình trạng tăng đông, đa hồng cầu, bệnh hồng cầu hình liềm, tím do bệnh tim bẩm sinh, trong và sau sinh.
Biến chứng thần kinh không do di căn của bệnh ác tính
Rối loạn mạch máu não gây ra biến chứng thần kinh ở bệnh nhân ung thư hệ thống bao gồm viêm nội tâm mạc huyết khối không do nhiễm khuẩn và huyết khối nhiễm khuẩn.
Chẩn đoán rối loạn cảm giác
Tính chất, vị trí, cách khởi phát, hướng lan, ranh giới cảm giác cần được xác định và phát hiện các yếu tố làm tăng nặng, giảm nhẹ của triệu chứng.
Chẩn đoán yếu cơ và liệt cơ
Yếu cơ do tổn thương neuron I của đường vận động được đặc trưng bằng tổn thương khu trú một số nhóm cơ kết hợp với tăng trương lực, tăng phản xạ gân xương và có phản xạ duỗi gan bàn chân.
Chẩn đoán nhồi máu não ổ khuyết
Nhồi máu não ổ khuyết đôi khi có thể nhìn thấy trên CT scan là các vùng giảm tỷ trọng nhỏ, như đục lỗ nhưng ở một số bệnh nhân khác không nhìn thấy bất thường trên CT scan.
Áp xe não
Chụp cắt lớp sọ não sẽ thấy vùng ngâm thuốc cản quang ở xung quanh và ở giữa là vùng giảm tỷ trọng. Hình ảnh tương tự cũng có thể thấy ở bệnh nhân u não di căn.
Hội chứng nhược cơ
Điều trị bằng thay thế huyết tương và thuốc ức chế miễn dịch (prednison và azathioprin) có thể cải thiện cả về lâm sàng và sinh lý điện cơ, cộng thêm với các liệu pháp điều trị ung thư nếu có.
Các rối loạn bệnh lý cơ
Các bệnh cơ ty lạp thể là một nhóm các rối loạn có biểu hiện lâm sàng đa dạng. Xét nghiệm mô bệnh học với phương pháp nhuộm Gomori cải tiến cho hình ảnh tổn thương đặc trưng.
Chấn thương tủy
Điều trị chấn thương tủy bao gồm bất động và nếu có chèn ép tủy thì phẫu thuật cung đốt sống giải phóng chèn ép và sau đó kết hợp xương làm kín cung đốt sống.
Chảy máu não
Khoảng một nửa số bệnh ở chảy máu não bán cầu ý thức bị mất hoặc bị rối loạn ngay từ đầu. Nôn rất hay gặp trong khởi phát của chảy máu não, đôi khi có đau đầu.
Đau cổ
Tiêu hủy cột sống cổ do thoái hóa đĩa đệm cột sống cổ mạn tính, với thoát vị đĩa đệm, vôi hóa thứ phát và kèm theo mọc nhanh chồi xương.
Bệnh nhược cơ nặng
Bệnh nhân có biểu hiện sụp mi, song thị, khó nhai và khó nuốt, khó thở, yếu chi, hoặc phối hợp các triệu chứng này. Yếu cơ có thể chủ yếu khu trú ở nhóm cơ.
