Rối loạn chuyển hóa Vitamin C

2016-02-25 12:57 PM

Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thiếu hụt vitamin đơn thuần ít gặp hơn là thiếu hụt nhiều vitamin củng với thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng. Mặc dù bất kỳ nguyên nhân nào của thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng đều có thể dẫn đến thiếu hụt đồng thời vitamin, nhưng hầu hết các trường hợp như vậy đều đi kèm với giảm hấp thu, nghiện rượu, dùng dược phẩm, thẩm phân máu, dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa, có sở thích kỳ quặc về ăn uống, hoặc có rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.

Các hội chứng thiếu hụt vitamin thường xuất hiện từ từ. Các triệu chứng thường không đặc hiệu và khám thực thể hiếm khi giúp cho chẩn đoán sớm. Hầu hết các dấu hiệu thực thể đặc trưng xuất hiện muộn trong diễn biến của hội chứng. Những dấu hiệu thực thể đặc trưng khác như viêm lưỡi, viêm môi gặp trong thiếu hụt nhiều vitamin nhóm B. Những bất thường như vậy sẽ gợi ý là có thiếu hụt dinh dưỡng nhưng không chỉ ra được cụ thể chất nào bị thiếu.

Mặc dù là tương đối dễ trong điều chỉnh bằng chế độ ăn hỗn hợp được khuyến cáo hàng ngày, nhưng nhiều người Mỹ đã dùng các chế phẩm bổ sung vitamin có thể phổ biến hơn những hội chứng thiếu hụt, đặc biệt là hội chứng thừa vitamin A, D, B6. Những đòi hỏi về lợi ích sức khỏe rõ rệt của những chế phẩm bổ sung này, nhất là khi dùng những liều lớn đều chưa được chứng minh.

Một số vitamin có thể được dùng một cách công hiệu như thuốc. Các dẫn xuất của vitamin A được dùng để điều trị trứng cá nang, và gần đây hơn là trường hợp da nhăn nheo. Niacin có hiệu quả với tăng lipid huyết. Những rối loạn chuyển hóa vitamin bẩm sinh cũng cần những liều dược lý học các vitamin.

Vitamin C là chất chống oxy hóa tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử và cũng cần để tổng hợp collagen. Vitamin C làm tăng hấp thu sắt ngoài Hem và tham gia vào chuyển hóa tyrosin, liền vết thương, và chuyển hóa thuốc. Ngoài sự tổng hợp collagen, cơ chế tác động của những chức năng này còn chưa rõ ràng. Nguồn thức ăn chính cung cấp vitamin c là hoa quả và rau tươi.

Biểu hiện lâm sàng thiếu hụt vitamin C

Đa số các trường hợp thiếu vitamin C ở Mỹ là do đưa vào không đủ ở những người sống ở vùng nông thôn nghèo, người nhiều tuổi và người nghiện rượu mạn tính. Những bệnh nhân bị bệnh mạn tính như ung thư, suy thận mạn hoắc những người hút thuốc cũng có nguy cơ.

Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện. Những biểu hiện này bao gồm xuất huyết hoặc ban xuất huyết, đám xuất huyết, chảy máu lợi, tụ máu khớp và xuất huyết dưới màng xương. Các dấu hiệu quanh răng không có ở những bệnh nhân bị rụng răng. Thiếu máu là hay gặp và chậm liền vết thương. Những giai đoạn muộn của bệnh Scorbut đặc trưng bằng phủ, thiểu niệu, bệnh thần kinh, xuất huyết nội sọ và tử vong.

Chẩn đoán thiếu hụt vitamin C

Chẩn đoán bệnh Scorbut tiến triển có thể dựa trên nền của các tổn thương da trong tình huống lâm sàng thích hợp. Tụ máu khớp không do chăn thương cũng gợi ý mạnh mẽ cho chẩn đoán. Có thể chẩn đoán xác định bằng giảm mức acid ascorbic huyết tương, điển hình là dưới 0,1 mg/dL.

Điều trị thiếu hụt vitamin C

Bệnh Scorbut ở người trưởng thành có thể được điều trị bằng 300 - 1000 mg acid ascorbic mỗi ngày. Sự cải thiện điển hình xảy ra trong vòng vài ngày. Một số nghiên cứu đã gợi ý rằng việc đưa vào nhiều vitamin C liên quan đến giảm nguy cơ ung thư. Vitamin C cũng bảo vệ chống lại bệnh vành tim bằng cách làm thay đổi mức cholesterol máu và ngăn ngừa cholesterol LDL do quá trình oxy hóa. Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân và do bệnh vành tim giảm ở những người dùng nhiều vitamin C (khoảng 300 - 400 mg/ngày) đã được ghi nhận.

Ngộ độc vitamin C

Liều rất lớn vitamin C có thể có những tác dụng phụ. Phổ biến nhất là kích ứng dạ dày, đầy hơi, hoặc ỉa chảy, sỏi thận loại oxalat là mối lo ngại trên lý thuyết vì acid ascorbic được chuyển hóẩ thành oxalat, nhưng sự hình thành sỏi chưa được ghi nhận một cách thưởng xuyên. Vitamin C có thể cũng ngăn trở các xét nghiệm chẩn đoán thông thựờng do gây kết quả âm tính giả với xét nghiệm tìm máu kín đáo trong phân và cả kết quả âm tính và dương tính giả đối với glucose niệu.

Bài viết cùng chuyên mục

Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng

Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.

Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân

Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.

Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân

Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.

Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu

Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.

Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu

Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.

Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu

Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin E

Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin A

Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin

Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin

Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin

Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin

Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.

Ăn vô độ tâm thần

Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.

Chán ăn tâm thần

Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.

Béo phì

Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.

Suy dinh dưỡng protein năng lượng

Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.

Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc

Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.

Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể

Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.