Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

2016-02-26 08:54 PM

Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra tới 50% các bệnh nhân. Mặc dù hầu hết là nhẹ và dễ xử trí thì khoảng 5% bệnh nhân sẽ xuất hiện các biến chứng rõ rệt. Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm có thể được chia thành những biến chứng Ịiên quan đến catheter và những biến chứng chuyển hóa.

Những biến chứng liên quan đến catheter có thể xảy ra trong quá trình đặt catheter hoặc khí thay catheter. Tràn khí màng phổi, tràn máu màng phổi, rách động mạch, nghẽn mạch khí, và tổn thương đám rối thần kinh cánh tay có thể xảy ra trong quá trình đặt catheter. Tỷ lệ của những biến chứng này tỷ lệ nghịch với kinh nghiệm của người thầy thuốc tiến hành thủ thuật nhưng sẽ xảy ra ít nhất 1- 2% các trường hợp, thậm chí là ở những trung tâm y tế lớn. Mỗi khi đặt catheter cần xác định bằng chụp X quang ngực trước khi bắt đầu hỗ trợ dinh dưỡng.

Huyết khối do catheter và nhiễm trùng liên quan với catheter là những biến chứng quan trọng nhất của đặt catheter. Những bệnh nhân đặt catheter tĩnh mạch trung tâm có sốt mà không có nguyên nhân khác thì cần rút đường truyền ngay lập tức, cây đầu ống thông và bắt đầu dùng các kháng sinh theo kinh nghiệm. Nên lấy máu để cấy ở vị trí xa nơi đặt, thời gian dùng kháng sinh sẽ đo độ dương tính và số khuẩn lạc ở đầu ống thông quyết định. Nhiễm khuẩn liên quan đến catheter xảy ra ở 2 - 3% bệnh nhân, thậm chí đã cố gắng tối đa để ngăn ngừa nhiễm khuẩn.

Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm xảy ra ở trên 50% số bệnh nhân. Hầu hết là nhẹ và dễ xử trí, hiếm khi cần phải ngừng hỗ trợ dinh dưỡng.

Bảng. Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa 

Các biến chứng chuyển hóa của hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa 

Bài viết cùng chuyên mục

Theo dõi bệnh nhân trong quá trình hỗ trợ dinh dưỡng

Những bệnh nhân có cân bằng nitơ dương tính có thể được tiếp tục chế độ hiện tại của họ, những bệnh nhân có cân bằng nitơ âm tính thì nên tăng vừa phải lượng calo và protein đưa vào, sau đó đánh giá lại.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa

Chất béo đường tĩnh mạch, cũng có thể được dùng, cho những bệnh nhân nhận hỗ trợ dinh dưỡng đường tĩnh mạch trung tâm.

Các biến chứng của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các biến chứng chuyển hóa trong hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa là hay gặp nhưng trong hầu hết các trường hợp là dễ xử trí.

Các dung dịch hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa

Các dung dịch chứa các protein thủy phân hoặc các acid amin kết tinh có thành phần chất béo không đáng kể được gọi là dung dịch cơ bản vì các chất dinh dưỡng đa lượng.

Nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân

Hầu hết dung dịch đường tiêu hóa trộn sẵn đều cung cấp đầy đủ các vitamin, các khoáng chất cũng như lượng calo đầy đủ.

Hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân

Chú ý tới sở thích của bệnh nhân, thời gian của những bữa ăn, các thủ thuật chẩn đoán, sử dụng thuốc, và việc sử dụng các thức ăn do gia đình và bạn bè mang tới bệnh viện.

Chế độ ăn bổ xung dinh dưỡng trị liệu

Chất xơ trong chế độ ăn là một nhóm nhiều loại thực vật khác nhau và hệ tiêu hóa của người không tiêu hóa được. Chế độ ăn điển hình của người Mỹ có khoảng 5 - 10g chất xơ từ thức ăn mỗi ngày.

Chế độ ăn hạn chế chất dinh dưỡng trị liệu

Chế độ ăn 1000 mg muối cần hạn chế thêm nữa những thức ăn thường ngày. Hiện nay có sẵn các thức ăn có natri thấp đặc biệt để giúp cho chế độ ăn như vậy.

Chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn trị liệu

Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin E

Thiếu hụt vitamin E trên lâm sàng phổ biến nhất là do kém hấp thu nặng, không có betalipoprotein huyết di truyền hoặc ở trẻ em là bệnh gan ứ mật mạn tính, tịt đường mật hoặc xơ hóa nang.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin A

Thiếu hụt vitamin A là một trong những hội chứng thiếu hụt vitamin phổ biến nhất, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những vùng này, thiếu vitamin A là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin C

Biểu hiện sớm của thiếu hụt vitamin C là không đặc hiệu và bao gồm mệt, yếu. Ở những giai đoạn tiến triển hơn, biểu hiện điển hình của bệnh Scorbut (thiếu vitamin C) xuất hiện.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Pyridoxin

Thiếu hụt vitamin B6 thường xảy ra nhất như là hậu quả của sự tương tác của các thuốc, đặc biệt là isoniazid, cycloserin, penicillamin, và các thuốc uống tránh thai hoặc ở người nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Niacin

Về mặt tiền sử, thiếu hụt niacin xảy ra ở những nơi khi mà ngô là nguồn năng lượng chính. Hiện tại, thiếu hụt niacin phổ biến hơn do nghiện rượu.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin Riboflavin

Riboflavin, coenzym flavin mononucleotid và flavin adenin dinucleotid, tham gia vào nhiều phản ứng oxy hóa khử khác nhau và là thành phần thiết yếu của nhiều enzym khác.

Rối loạn chuyển hóa Vitamin thiamin

Vai trò chính của thiamin là tiền chất của thiamin pyrophosphat, một coenzym cần cho một số phản ứng sinh học quan trọng, cần thiết cho quá trình oxy hóa carbonhydrat.

Ăn vô độ tâm thần

Một số bệnh nhân bị chứng ăn vô độ cũng có dạng chán ần tâm thần ẩn với sụt cân rõ rệt và vô kinh. Khía cạnh gia đình và tâm lý nhìn chung tương tự như đối với những bệnh nhân chán ăn tâm thần.

Chán ăn tâm thần

Có nhiều bất thường về nội tiết tồn tại ở những bệnh nhân này, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng chúng chỉ là thứ phát do suy dinh dưỡng và không phải là những rối loạn tiên phát.

Béo phì

Béo phì được định nghĩa như là tình trạng có quá nhiều mô mỡ. Sự xác định chính xác mô mỡ cần những kỹ thuật tinh vi nhưng lại chưa phổ biến trong thực tiễn lâm sàng.

Suy dinh dưỡng protein năng lượng

Suy dinh dưỡng protein năng lượng xảy ra như là hậu quả của sự thiếu hụt tương đối hoặc tuyệt đối năng lượng và protein.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

Nên khám thực thể tập trung vào mặt dinh dưỡng trên từng bệnh nhân có nguy cơ về các vấn đề dinh dưỡng. Khám nhấn mạnh vào sự mỏi cơ, dự trữ mỡ.

Lời khuyên về ăn uống, tương tác chất dinh dưỡng và thuốc

Lượng thức ăn tính như một khẩu phần được đưa ra ở tên dưới. Nếu bạn cần ăn phần lớn hơn thì tính hơn một khẩu phần. Ví dụ, suất ăn tối bằng mỳ ý có thể tính là 2 - 3 khẩu phần tinh bột.

Nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể

Nhu cầu dinh dưỡng không chỉ thay đổi ở từng cá thể mà còn thay đổi từng ngày và từng đối tượng. Chúng cũng khác nhau theo tuổi, giới, kích thước cơ thể, trong quá trình mang thai và cho con bú.