Cách kê đơn thuốc đông y (y học cổ truyền)

2013-03-02 10:18 AM

Ngoài 10 -11 vị thuốc dùng để nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc cơ thể, kích thích tiêu hóa, khai khiếu, việc sử dụng toa căn bản còn gia thêm Quế chi, Tía tô, Hành, Kinh giới, Bạch chỉ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những phương pháp kê đơn thuốc

Sau khi chẩn đoán, người thầy thuốc sẽ căn cứu vào tình trạng bệnh cụ thể mà thiết lập một đơn thuốc điều trị. Đông y thường gọi là biện chứng luận trị (dựa vào bệnh - chứng của người bệnh mà biện luận cách trị liệu). Có nhiều phương pháp kê đơn thuốc trong Đông y.

Cổ phương gia giảm - theo lý luận Đông y

Theo phương pháp này, nội dung bài thuốc là những bài thuốc đã được xác lập, ghi nhận kết quả từ lâu đời qua nhiều thế hệ, được ghi lại trong các sách kinh điển. Khi điều trị người thầy thuốc thường tăng thêm (gia) hoặc giảm bớt (giảm) vị thuốc hay liều dùng sao cho phù hợp nhất với tình hình thực tế của bệnh nhân.

Một ví dụ như để chữa chứng Ngoại cảm phong hàn, biểu thực (có sợ lạnh, phát sốt, không mồ hôi, ngạt mũi, thở suyễn, hoặc ho đờm, đau đầu, đau nhức các khớp, cứng gáy, mạch phù khẩn) thì bài thuốc kinh điển Đông y sử dụng là bài Ma hoàng thang.

Ưu điểm: thể hiện đầy đủ tính chất lý pháp của Đông y.

Nhược điểm: khó nhớ, lệ thuộc vào thuốc ngoại nhập, khó vận dụng vì bệnh cảnh có thể thay đổi.

Theo đối chứng trị liệu

Theo phương pháp này, người thầy thuốc cổ truyền chọn thuốc điều trị dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân.

Triệu chứng

Thuốc

Sợ lạnh, phát sốt, không đổ mồ hôi, đau nhức tứ chi.

Quế chi

Ho, hen đờm suyễn.

Tía tô

Đau đầu, cứng gáy, ngạt mũi.

Bạch chỉ

Ưu điểm:

Đơn giản, linh hoạt trong việc vận dụng các vị thuốc.

Không phải nhớ nhiều bài thuốc.

Nhược điểm:

Do hoàn toàn chạy theo triệu chứng nên dễ sa đà, làm mất tính cân đối trong lý pháp phương dược.

Theo kinh nghiệm dân gian

Phương pháp này sử dụng những kinh nghiệm gia truyền (có khi chỉ là truyền khẩu). Thường gặp trong dân tộc ít người.

Dùng nồi xông với các loại lá có chứa tinh dầu thơm.

Ưu điểm: dễ sử dụng, vận dụng được nam dược.

Khuyết điểm: không bảo đảm tính lý pháp của Đông y.

Theo toa căn bản

Nội dung bài thuốc theo toa căn bản được dựa theo kinh nghiệm của quân dân y trong thời gian kháng chiến. Ngoài 10 -11 vị thuốc dùng để nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc cơ thể, kích thích tiêu hóa, khai khiếu, việc sử dụng toa căn bản còn gia thêm Quế chi, Tía tô, Hành, Kinh giới, Bạch chỉ.

Ưu điểm:

Dễ sử dụng không cần học nhiều, vận dụng được Nam dược.

Nhược điểm:

Không thể hiện tính lý pháp của Đông y. + Đôi khi còn dùng quá nhiều thuốc.

Kê đơn theo dược lý tân y

Trong giai đoạn hiện nay, không chỉ người lương y, thầy thuốc cổ truyền sử dụng thuốc có nguồn gốc tự nhiên để trị bệnh, mà cả những thầy thuốc Tây y cũng quan tâm ngày càng nhiều. Vì thế, việc thiết lập các toa thuốc điều trị có sử dụng thêm cơ sở dược lý Tây y. Tiêu biểu cho phương pháp này là cách thiết lập bài thuốc do Bùi Chí Hiếu xây dựng (Giáo sư dược lý học).

Bài thuốc chung có gia giảm:

Tía tô  Bạc hà

Cúc hoa

Cam thảo đất

Kinh giới

Cúc tần

Gừng tươi.

Trong thể phong hàn:

Bỏ Bạc hà, Cúc hoa (tân lương giải biểu).

Bỏ Cam thảo đất (Thanh nhiệt giải độc).

Trong thể phong nhiệt:

Bỏ Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi.

Ưu điểm: thỏa mãn được yêu cầu điều tri của Đông y cũng như Tây y từ lý pháp đến biện chứng của Đông y cũng như phương pháp điều trị của Tây y.

Bài thuốc trên vừa đáp ứng được nhu cầu lý pháp của Đông y:

Phát tán phong hàn: Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi.

Chỉ khái trừ  đờm: Tía tô, Gừng tươi.

Tiêu ứ hóa thấp chỉ thống Kinh giới, Cúc tần.

Lại đáp ứng được yêu cầu điều trị triệu chứng theo Tây y nhờ các hoạt chất thiên nhiên có tác dụng sinh học:

Tinh dầu có trong Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi đều có tác dụng giãn mạch, làm ra mồ hôi, hạ sốt, giãn phế quản và long đờm để giảm ho, hen; lại có tác dụng sát trùng đường hô hấp để trừ nguyên nhân gây bệnh hoặc để chống bội nhiễm.

Nhược điểm: khó vận dụng, đòi hỏi phải có một trình độ tinh thông về y lý, dược lý của cả Đông và Tây y.

Những nội dung quan trọng trong cách kê đơn thuốc theo lý luận đông y

Vai trò của các vị thuốc trong một đơn thuốc (quân, thần, tá, sứ)

Việc cấu tạo các vị thuốc trong một bài thuốc nhằm để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong điều trị như sau:

Giải quyết những triệu chứng chính, những triệu chứng thuộc về nguyên nhân gây bệnh, những triệu chứng do tạng bệnh chính thể hiện.

Giải quyết những triệu chứng phụ, những triệu chứng do tạng phủ có quan hệ (biểu lý hoặc ngũ hành) với tạng phủ bị bệnh thể hiện.

Tăng hoạt tính của vị thuốc chính.

Đưa các vị thuốc chính đến tạng phủ, kinh lạc bị bệnh. ư  Điều hòa tính năng của các vị thuốc.

Do đó các vị thuốc thường đóng những vai trò sau đây:

Quân (Chủ dược): là đầu vị trong bài thuốc dùng để chữa triệu chứng chính, do nguyên nhân bệnh gây ra, do tạng bệnh chính thể hiện.

Thần (Phó dược): là những vị thuốc có tác dụng hợp đồng và hỗ trợ cho chủ dược.

Tá (Tá dược): là những vị thuốc để chữa các triệu chứng phụ hoặc ức chế độc tính hoặc tính mạnh bạo của chủ dược.

Sứ (Dẫn dược): là những vị thuốc để đưa các vị thuốc khác đến thẳng tạng phủ bệnh hoặc điều hòa các vị thuốc khác tính năng.

Quân, Thần, Tá, Sứ đó cũng là cách nói của người xưa dưới chế độ phong kiến. Coi triều đình có vua, có quan thì đơn thuốc cũng phải có vị chính, vị phụ, vị nào chủ yếu, vị nào hỗ trợ.

Lấy Ma hoàng thang làm ví dụ. Đây là bài thuốc dùng chữa chứng cảm mạo phong hàn với các triệu chứng phát sốt, sợ lạnh, không có mồ hôi, ngạt
mũi, thở khò khè, đau đầu, cứng gáy, đau nhức các khớp, mạch phù khẩn.

Ma hoàng: cay ấm vào Phế, có tác dụng phát hãn, bình suyễn. Do phong hàn phạm Phế làm cho Phế khí bất tuyên thông, bất túc giáng nên có triệu chứng phát sốt, không có mồ hôi, thở suyễn, ngạt mũi. Vì vậy, Ma hoàng phải làm chủ dược, làm Quân.

Quế chi: cay ấm vào Phế, Bàng quang, có tác dụng ôn kinh chỉ thống và lại phát tán phong hàn. Do phong hàn tà làm bế tắc kinh lạc mà gây thành chứng đau đầu, cứng gáy, đau nhức các khớp xương. Quế chi phối hợp với Ma hoàng để phát tán phong hàn lại vừa ôn kinh chỉ thống giải quyết triệu chứng phụ. Vì vậy Quế chi là phó dược, làm Thần.

Hạnh nhân: đắng ấm vào Phế, Đại trường, vừa có tác dụng chữa ho, hen do phong hàn ngăn trở Phế khí, vừa phối hợp với Ma hoàng chữa thở suyễn nên làm phó dược, làm Thần.

Cam thảo bắc: ngọt bình vào 12 kinh, để giảm bớt tính công phạt của Ma hoàng nên là dẫn dược, làm Sứ.

Chú ý: các vị thuốc dẫn kinh làm sứ là thuốc đưa thuốc khác đến với bộ vị bị bệnh như

Phòng phong và Khương hoạt dẫn vào Thái dương kinh.

Thăng ma, Cát căn và Bạch chỉ dẫn vào Dương minh kinh.

Sài hồ dẫn vào Thiếu dương kinh.

Thương truật dẫn vào Thái âm kinh.

Độc hoạt dẫn vào Thiếu âm kinh.

Tế tân, Xuyên khung và Thanh bì dẫn vào Quyết âm kinh.

Cát cánh dẫn lên Yết hầu.

Tang chi dẫn ra hai tay.

Ngưu tất dẫn xuống hai chân.

Nói tóm lại, sự cấu tạo bài thuốc theo Quân Thần Sứ được phân thành hai nhóm:

Nhóm chữa triệu chứng bệnh.

Nhóm điều hòa tính năng hoặc/và dẫn kinh cho nhóm trên.

Những yếu tố ảnh hưởng đến vị trí của vị thuốc trong bài thuốc

Trong thực tế điều trị, người thầy thuốc Đông y còn phải chú ý đến những nguyên tắc sau đây để quyết định vị trí của thuốc trong từng bài thuốc.

Tiêu bản hoãn cấp:

Cấp thì trị Tiêu: ví dụ: tiêu chảy ra máu cấp tính do Thấp nhiệt làm bức huyết ở Đại trường thì thuốc nào cầm máu sẽ làm QUâN, thuốc nào quy kinh Đại trường mà thanh nhiệt trừ thấp sẽ làm THầN.

Hoãn thì trị Bản: ví dụ: thường xuyên đi cầu ra máu do Tỳ dương hư không thống nhiếp huyết, bệnh không cấp tính thì thuốc kiện Tỳ làm Quân, thuốc cầm máu thì làm Thần.

Chú ý đến trạng thái Hư, Thực của bệnh nhân:

Nếu người có bẩm tố dương hư mà cảm mạo thương hàn thì thuốc bổ dương khí làm QUâN, mà thuốc phát tán phong hàn sẽ làm THầN.

Chú ý đến phương pháp Đóng Mở trong điều trị:

Nếu người có chứng âm hư sinh nội nhiệt thì thuốc bổ âm làm Quân và thuốc tiết nhiệt sẽ làm Thần.

Hoặc ở bệnh nhân tiêu chảy và tiểu ít thì thuốc cầm tiêu chảy sẽ là Quân và thuốc lợi thủy sẽ làm Thần (lợi thủy để chỉ tả).

Chú ý đến giai đoạn bệnh (dành cho các bệnh truyền nhiễm):

Ở giai đoạn khởi phát thì tà khí ở phần Vệ, nên các thuốc có tác dụng phát hãn sẽ làm Quân.

Ở giai đoạn toàn phát tà khí và chính khí đấu tranh quyết liệt, lúc đó phải giữ vững chính khí trừ tà khí, thì thuốc bổ chính khí sẽ là Quân, thuốc trừ tà khí sẽ là Thần.

Ở giai đoạn hồi phục thì chính khí bị hao tổn, do đó thuốc bổ chính khí sẽ làm Quân.

Chú ý đến nguyên nhân gây bệnh:

Trong điều trị các bệnh lý do ngoại nhân gây nên (Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa)

Vai trò của các vị thuốc trong trường hợp này được chú ý đến luật âm dương. Việc phối hợp thuốc tập trung giải quyết chủ chứng (chứng trạng chủ yếu của bệnh lý ấy). Nguyên do bệnh ngoại cảm là bệnh mới mắc, bệnh chưa diễn tiến lâu dài nên chưa có điều kiện làm rối loạn các công năng tạng phủ khác theo qui luật ngũ hành.

Những ví dụ về cách tập họp vị thuốc trong bệnh lý do ngoại nhân gây nên.

Điều trị chứng Quyết âm nhiệt quyết: Pháp trị: tư âm thanh nhiệt. Bài huốc kinh điển: Hoàng liên A giao thang Thanh nhiệt:

Vai trò các vị thuốc

Tên vị thuốc

Tác dụng

Quân

A giao
Bạch thược

Tư âm

Thần

Hoàng liên
Hoàng cầm

 

Điều trị chứng Quyết âm hàn quyết. Pháp trị: hồi dương ôn lý. Bài thuốc kinh điển: Tứ nghịch thang

Vai trò các vị thuốc

Tên vị thuốc

Tác dụng

Quân

Phụ tử

Hồi dương ôn lý

Thần

Can khương

Hồi dương ôn lý


Sứ

Cam thảo

 

Trong điều trị các bệnh lý do nội nhân, các bệnh nội thương gây nên

Trong nhóm này, vai trò của các vị thuốc được xác lập theo luật ngũ hành sinh khắc rất chặt chẽ như thuốc chữa bệnh chứng Thận âm hư phải có vị thuốc bổ Can âm và vị thuốc tả Can, Tâm hỏa; thuốc chữa chứng Tâm dương hư luôn có vị thuốc bổ Thận dương và Tỳ dương.

Những ví dụ về cách tập hợp vị thuốc trong điều trị những bệnh lý do nội nhân, các bệnh nội thương gây nên.

Bài thuốc Lục vị chữa chứng Thận âm hư:

Vai trò các vị thuốc

Tên vị thuốc

Tác dụng

Quân

Thục địa
Sơn thù

Bổ Thận âm
Bổ Can Thận âm

Thần

Hoài sơn
Phục linh

Bổ âm (kiện Tỳ sinh tinh hậu thiên)

Đơn bì
Trạch tả
Phục linh

Tả Can hỏa
Thanh tiết Bàng quang

Bài thuốc Chân vũ thang chữa chứng  Tỳ Thận dương hư:

Vai trò của các vị thuốc

Vị thuốc

Tác dụng

Quân

Phụ tử

Hồi dương cứu nghịch, bổ hỏa trợ dương

Quân

Bạch thược

Dưỡng huyết Liễu âm. lợi tiểu, nhuận gan.

Thần

Can khương

Ôn dương tán hàn. Hồi dương thông mạch

Thần

Bạch truật

Kiện Vị, hòa trung, táo thấp

Phục linh

Bổ Tỳ định Tâm

Sự phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc

Mục đích của sự phối ngũ các vị thuốc là để tăng tác dụng, tăng hiệu quả các vị chủ dược, để giảm tác dụng phụ, giảm độc tính các vị thuốc nhất là chủ dược và sau cùng là để tránh làm mất hiệu quả thuốc hoặc làm tăng độc tính hơn. Có những loại phối ngũ sau.

Tương tu: hai vị thuốc có cùng tác dụng hổ trợ kết quả cho nhau. Ví dụ: Ma hoàng và Quế chi cùng tính vị cay ấm, cùng tính năng phát tán phong hàn (Ma hoàng thang) làm ra mồ hôi.

Tương sử: hai vị thuốc trở lên, tác dụng có khi khác nhau, một thứ chính, một thứ phụ, dùng để nâng cao hiệu quả chữa bệnh. Ví dụ: trong bài Ma hoàng thang có Ma hoàng và Hạnh nhân, Ma hoàng là phát tán phong hàn để tuyên thông Phế khí; Hạnh nhân chữa ho, trừ đờm cũng để tuyên thông Phế khí. Cả hai cùng phối hợp nhau để chữa hen suyễn.

Tương tu và Tương sử được xem như là cách phối hợp để làm hiệu quả điều trị cao hơn (synergique). Thường dùng cho các thuốc làm quân, làm thần.

Tương úy: là sử dụng một loại thuốc để làm giảm tác dụng phụ của một vị thuốc khác.

Lưu hoàng úy Phác tiên.

Thủy ngân úy Phê sương.

Lang độc úy Mật đà tăng.

Ba đậu úy Khiên ngưu.

Đinh hương úy Uất kim.

Nha tiêu úy Tam lăng.

Ô đầu úy Tê giác.

Nhâm sâm úy Ngũ linh chi.

Nhục quế úy Xích thạch chi

Tương sát: là sử dụng một loại thuốc để làm giảm độc tính của một số vị thuốc khác. Ví dụ Đậu xanh với Ba đậu.

Tương úy và Tương sát thường dùng cho các thuốc làm Tá dược hoặc Sứ dược. Ví dụ Cam thảo bắc trong bài Ma hoàng thang.

Tương ố: việc sử dụng một loại thuốc này sẽ làm mất tác dụng của một số thuốc khác. Ví dụ Hoàng cầm dùng chung với Sinh khương.

Tương phản: sử dụng một số thuốc sẽ làm tăng độc tính một vị thuốc khác. Ví dụ ô đầu dùng chung với Bán hạ.

Tương ố và Tương phản thường để nói lên sự cấm kỵ trong khi kê đơn, trong đó Tương ố là chất đối kháng (antagonist).

Sự cấm kỵ trong khi dùng thuốc

Trong khi có thai cấm dùng

Ba đậu (tả hạ).

Khiên ngưu, Đại kích, Thương lục (trục thủy).

Tam thất (hoạt huyết).

Sa hương (phá khí).

Nga truật, Thủy điệt, Manh trùng (phá huyết).

Trong khi có thai, thận trọng khi dùng

Đào nhân, Hồng hoa (hoạt huyết).

Bán hạ, Đại hoàng (tả hạ).

Chỉ thực (phá khí).

Phụ tử, Can khương, Nhục quế (đại nhiệt).

Các vị thuốc tương phản với nhau

Cam thảo bắc phản Cam toại, Nguyên hoa, Hải tảo.

Ô đầu phản Bối mẫu, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm.

Lê lô phản Sâm, Tế tân, Bạch thược.

Cấm kỵ trong khi uống thuốc

Cam thảo bắc, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai kiêng thịt lợn.

Bạc hà kiêng Ba ba.

Phục linh kiêng dấm.

Dùng các thuốc ôn trung trừ hàn kiêng đồ ăn sống lạnh.

Dùng các thuốc kiện Tỳ tiêu đạo kiêng chất béo, tanh, nhờn.

Dùng các thuốc an thần định chí kiêng chất kích thích.

Bài viết cùng chuyên mục

Y học cổ truyền huyết áp thấp (đông y)

Chứng huyết áp thấp do bất kỳ nguyên nhân nào, theo y học cổ truyền đều thuộc chứng Hư, Nhẹ thì do Tâm dương bất túc, Tỳ khí suy nhược, nặng thì thuộc thể Tâm.

Y học cổ truyền tăng huyết áp nguyên phát (đông y)

Tăng huyết áp ác tính chiếm 2 - 5% các trường hợp tăng huyết áp. Tất cả các loại tăng huyết áp do nguyên nhân khác nhau đều có thể chuyển thành tăng huyết áp ác tính.

Y học cổ truyền nhược năng tuyến giáp (viêm tuyến giáp Hashimoto)

Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của nó là tinh thần uất ức kéo dài, tình chí thất thường, can mất điều hoà dẫn đến can khí uất kết, khí trệ huyết ứ.

Y học cổ truyền suy nhược mãn tính

Do mắc bệnh lâu ngày, làm cơ thể suy yếu, Thận âm, Thận dương suy, Thận âm suy hư hỏa bốc lên, Thận dương suy chân dương nhiễu loạn ở trên.

Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)

Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: tỳ vị thấp nhiệt

Ngoài tính chất của thử (nhiệt) tà là làm hao khí, tổn hao tân dịch và thấp tà làm trở trệ hoạt động của khí đưa đến ngăn trở hoạt động công năng của Ty Vị và làm hao tổn tân dịch của Vị

Bệnh học thận bàng quang

Con người mới sinh ra đầu tiên là nhờ tinh khí tiên thiên mà sống và phát triển. Do đó Thận chủ tiên thiên.

Đường niệu bệnh, tiêu khát (đái tháo đường)

Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.

Kinh nguyệt đến sau kỳ: điều trị theo y học cổ truyền

Khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm bắt đầu đầy đủ thịnh vượng thì hành kinh đúng chu kỳ mỗi tháng. Đến trên dưới 49 tuổi thì khí huyết của mạch Xung, mạch Nhâm suy yếu dần.

Thống phong (bệnh goutte)

Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận và một phần qua đường phân cùng với các đường khác 200 mg.

Y học cổ truyền mỡ máu tăng cao

Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: can đởm thấp nhiệt

Đau vùng hông sườn hoặc các triệu chứng ở bộ phận sinh dục, vùng quản lý của Can mang tính chất Thấp và Nhiệt.

Phân loại thuốc y học cổ truyền

Thuốc thanh nhiệt là nhóm thuốc có tác dụng thanh nhiệt giáng hoả, thanh nhiệt lương huyết và thanh nhiệt giải độc.

Y học cổ truyền rối loạn hấp thu (đông y)

Tiêu phân mỡ 10 - 40 g/ngày, sinh thiết ruột non cho thấy dãn nở hệ bạch dịch và lacteat trong lớp lamina propia, các nhung mao có hình như dùi trống.

Y học cổ truyền viêm gan mạn tính hoạt động

Viêm gan cấp tính điều trị không triệt để hoặc không được điều trị, bệnh tà lưu lại ở cơ thể, thấp nhiệt tích tụ ở can tỳ hoặc trung tiêu, khí cơ uất trệ, tạng phủ hư tổn, khí - huyết bất túc nặng hơn.

Tiết niệu lạc cảm nhiễm (viêm đường tiết nệu)

Pháp chữa: kiện tỳ bổ thận, chính tả song giải vừa phù chính vừa khu tà, phù chính sẽ có tác dụng khu tà, khư tà sẽ nâng cao khả năng phù chính, công bổ kiêm dùng.

Viêm sinh dục nữ: bệnh học y học cổ truyền, đông y

Đặc điểm lâm sàng khởi đầu bằng tình trạng viêm niêm mạc cơ quan sinh dục nữ, gây viêm tại chỗ sau đó lan theo chiều dài bộ phận sinh dục.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết đại trường

Nhiệt tà có tính chất tổn khí và hao tân dịch, do đó sẽ ảnh hưởng đến chức năng truyền tống của phủ Đại trường cũng như hao tổn âm dịch của phủ Đại trường.

Y học cổ truyền thấp tim tiến triển

Tức ngực tâm quí, suyễn khái khí súc, hông sườn chướng đau, thiện án; đàm đa sắc trắng, thậm chí có bọt sắc hồng.

Y học cổ truyền bại não (đông y)

Mặc dù bất thường về vận động là dấu hiệu nổi bật nhất, nhưng rất thường gặp kèm theo những sa sút về trí thông minh, về phát triển tình cảm, ngôn ngữ và nhận thức.

Y học cổ truyền hen phế quản (đông y)

Có thể có triệu chứng báo hiệu hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực, Chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.

Bệnh học ngoại cảm thương hàn

Thái dương kinh đi ở lưng, song song với Đốc mạch. Đốc mạch là tổng các kinh dương, là bể của dương mạch, tương thông với Thái dương.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: phong hàn thúc phế

Phong là dương tà có đặc điểm biến hóa nhanh, là nhân tố hàng đầu của mọi bệnh, và thường kết hợp với các tà khác để gây bệnh.

Thoát cốt thư: viêm tắc động mạch chi

Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch.

Bệnh học phế đại trường

Chức năng của Đại trường là tống chất cặn bã ra ngoài. Linh lan bí điển luận/Tố vấn viết: “Đại trường giả tiền đạo chi quan, biến hóa xuất yên”.