Vắc xin Covid-19 Vaxzevria (AstraZeneca): hiệu quả liều lượng và cách sử dụng

2021-05-23 01:23 PM

Một loại vắc xin được nghiên cứu bởi Đại học Oxford và được sản xuất bởi công ty AstraZeneca của Anh-Thụy Điển đã nổi lên như một yếu tố quan trọng trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu toàn cầu về các loại vắc-xin phòng ngừa covid-19.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tên vắc xin: Vaxzevria (còn được gọi là AZD1222, hoặc Covishield ở Ấn Độ)

Hiệu quả: 76% trong một nghiên cứu tại Hoa Kỳ.

Liều lượng: 2 liều

Loại: Tiêm bắp thịt

Bảo quản: Ổn định trong tủ lạnh ít nhất 6 tháng.

Một loại vắc xin được nghiên cứu bởi Đại học Oxford và được sản xuất bởi công ty AstraZeneca của Anh-Thụy Điển đã nổi lên như một yếu tố quan trọng trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu toàn cầu về các loại vắc-xin phòng ngừa covid-19. Với hiệu quả 76%, vắc-xin - hiện được gọi là Vaxzevria - đang được sản xuất với số lượng lớn với giá thấp. Vì chỉ cần bảo quản lạnh chứ không phải đông lạnh nên nó có thể được sử dụng rộng rãi hơn nhiều so với vắc xin mRNA. Nhưng hành trình của Vaxzevria gặp nhiều sóng gió, rung chuyển bởi những thông điệp khó hiểu từ AstraZeneca, những lo lắng về an toàn và những khó khăn trong quá trình sản xuất.

Vào đầu năm 2020, các nhà nghiên cứu ở Oxford đã phát triển vắc-xin này bằng kỹ thuật biến đổi gen một loại virus adenovirus thường lây nhiễm cho tinh tinh. Khi họ tiêm vắc-xin cho khỉ, họ nhận thấy rằng nó đã bảo vệ các con vật khỏi dịch bệnh.

Hợp tác với AstraZeneca, họ tiếp tục thử nghiệm Giai đoạn 1/2. Các nhà phát triển vắc xin đã không phát hiện ra bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào trong thử nghiệm, đồng thời quan sát thấy vắc-xin làm tăng kháng thể chống lại coronavirus cũng như các biện pháp bảo vệ miễn dịch khác. AstraZeneca và Oxford sau đó bắt tay vào các thử nghiệm giai đoạn cuối ở Vương quốc Anh, Nam Phi và các nơi khác. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã tiến hành các thử nghiệm một cách độc lập, khiến việc kết hợp các kết quả của họ thành một bức tranh rõ ràng nhất về hiệu quả hoạt động của vắc xin là rất khó. Khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn, họ đã tiêm các lượng vắc-xin khác nhau cho những người khác nhau và cũng đợi từ bốn đến mười hai tuần để tiêm liều thứ hai.

Vào ngày 8 tháng 12, AstraZeneca và Oxford đã xuất bản bài báo khoa học đầu tiên về thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 của vắc xin coronavirus. Thử nghiệm đã chứng minh rằng vắc-xin có thể bảo vệ mọi người khỏi Covid-19, nhưng nó để lại nhiều câu hỏi chưa được giải đáp về kết quả. Tuy nhiên, chi phí thấp và dễ bảo quản của vắc-xin đã khiến nó trở nên hấp dẫn đối với các quốc gia đang tìm cách thoát khỏi đại dịch. Vương quốc Anh và Argentina là những quốc gia đầu tiên cấp phép khẩn cấp vắc xin vào ngày 30 tháng 12. Vào ngày 3 tháng 1, Ấn Độ đã phê duyệt một phiên bản có tên Covishield, do Viện Huyết thanh của Ấn Độ sản xuất. Vào ngày 16 tháng 2, Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến nghị sử dụng vắc xin này trong trường hợp khẩn cấp ở người lớn từ 18 tuổi trở lên. Brazil đã phê duyệt đầy đủ vắc-xin vào ngày 13 tháng 3. Trong cùng tháng, Covax bắt đầu cung cấp hàng triệu liều vắc-xin cho các nước có thu nhập thấp và trung bình. Công ty dự kiến tổng công suất sản xuất hàng năm là hai tỷ liều.

Tuy nhiên, ngay cả sau khi hàng triệu người bắt đầu nhận vắc-xin, những lo ngại mới đã xuất hiện. Ở Nam Phi, một thử nghiệm nhỏ đã không chứng minh được rằng nó bảo vệ mọi người chống lại biến thể B.1.351, biến thể đã trở nên phổ biến ở nước này. Vào ngày 7 tháng 2, Nam Phi đã tạm dừng kế hoạch triển khai 1 triệu liều vắc xin AstraZeneca.

Vào tháng 3 năm 2021, một mối quan tâm khác xuất hiện. Các cơ quan quản lý y tế châu Âu trở nên lo ngại về một số ít trường hợp đông máu ở những người trẻ tuổi được điều trị Vaxzevria. Cơ quan Dược phẩm Châu Âu kết luận rằng vắc-xin có một tác dụng phụ rất hiếm khi khiến người bệnh bị đông máu trong các tĩnh mạch lớn kết hợp với tiểu cầu thấp. Các cơ quan quản lý nhấn mạnh rằng vắc xin có hiệu quả và những lợi ích mà nó mang lại vượt trội so với nguy cơ tác dụng phụ nhỏ. Đáp lại, một số quốc gia đã chọn cách giảm thiểu rủi ro bằng cách hạn chế tiêm vắc-xin cho người lớn tuổi. Vào tháng 5, Na Uy đã loại bỏ vĩnh viễn Vaxzevria khỏi chương trình tiêm chủng của họ.

Hoa Kỳ vẫn chưa ủy quyền cho Vaxzevria, bất chấp sự hỗ trợ mà nó cung cấp cho sự phát triển của nó. Năm 2020, chính phủ đã cấp cho AstraZeneca 1 tỷ đô la để chi trả cho nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng và sản xuất. Vào mùa hè năm đó, công ty hứa sẽ phân phối Vaxzevria tại Hoa Kỳ ngay sau tháng 10 năm đó. Nhưng mối lo ngại về sức khỏe của một tình nguyện viên trong cuộc thử nghiệm lâm sàng ở Mỹ đã khiến cuộc nghiên cứu bị đình trệ trong bảy tuần. AstraZeneca đã không cung cấp kết quả của cuộc thử nghiệm cho đến tháng 3 năm 2021 - chỉ bị các cố vấn chuyên môn của họ quở trách về dữ liệu. Hai ngày sau, công ty thông báo rằng một cái nhìn đầy đủ hơn về thử nghiệm cho thấy vắc-xin này có hiệu quả chống lại Covid-19 là 76% và hiệu quả 100% đối với bệnh nặng và nhập viện. AstraZeneca đang chuẩn bị hồ sơ lên FDA để được cấp phép đầy đủ.

Ngay cả khi đang chạy thử nghiệm lâm sàng, AstraZeneca đã đạt được thỏa thuận với một số nhà sản xuất để sản xuất hàng tỷ liều Vaxzevria. Nhưng vào tháng 1 năm 2021, họ thừa nhận rằng họ sẽ không đạt được cam kết cung cấp vắc xin cho Liên minh châu Âu. Sự thiếu hụt của nó chỉ trở nên tồi tệ hơn vào tháng 3 khi Ấn Độ, đối mặt với sự bùng nổ của các ca bệnh mới, đã chặn xuất khẩu vắc-xin từ các nhà máy của mình. Vào ngày 26 tháng 4, Ủy ban Châu Âu đã công bố nó và đã đệ đơn kiện công ty vi phạm hợp đồng.

Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn phải vật lộn để tiêm phòng cho chính công dân của mình trong khi số ca mắc và tử vong tăng vọt. Hoa Kỳ bị chỉ trích dữ dội vì giữ lại nguyên liệu thô mà Ấn Độ cần để tự cung cấp Covishield. Vào ngày 25 tháng 4, chính quyền Biden thông báo sẽ dỡ bỏ một phần lệnh cấm. Nhưng các nhà phê bình cũng chỉ ra một kho dự trữ hàng triệu liều vắc xin AstraZeneca mà Hoa Kỳ bắt đầu sản xuất vào năm ngoái. Giờ đây, Hoa Kỳ đã có đủ vắc xin từ các công ty khác để bảo vệ tất cả công dân của mình, nên đã có những lời kêu gọi vận chuyển vắc xin của AstraZeneca đến Ấn Độ và các quốc gia khác đang rất cần. Vào ngày 25 tháng 4, Tiến sĩ Anthony Fauci cho biết chính phủ Hoa Kỳ đang xem xét gửi vắc xin.

Trong khi đó, AstraZeneca và Oxford đang tiếp tục nghiên cứu về loại vắc xin này. Vào ngày 14 tháng 2, họ thông báo sẽ bắt đầu thử nghiệm trên trẻ em dưới 6 tuổi. Trong một động thái chưa từng có trong lĩnh vực vắc-xin coronavirus, họ đã thông báo vào ngày 11 tháng 12 rằng họ sẽ hợp tác với các nhà nghiên cứu Nga của vắc-xin Sputnik V, cũng được sản xuất từ adenovirus, để xem liệu sự kết hợp với Sputnik V có thể làm tăng hiệu quả của vắc-xin Oxford-AstraZeneca. Thử nghiệm bắt đầu vào tháng 2 năm 2021. Một thử nghiệm kết hợp khác hiện đang được tiến hành giữa các vắc xin Oxford-AstraZeneca, Pfizer, Moderna và Novavax. Kết quả sơ bộ từ một nghiên cứu kết hợp khác nhau gợi ý rằng một liều Vaxzevria sau đó là vắc xin Pfizer và BioNTech là an toàn và hiệu quả. Các nhà nghiên cứu của Oxford đã phát hiện ra rằng Vaxzevria hoạt động tốt như một liều tiêm tăng cường thứ ba. AstraZeneca và Oxford cũng đang nghiên cứu một phiên bản vắc-xin mới phù hợp với biến thể B.1.351 và đang thử nghiệm một phiên bản có thể được phân phối dưới dạng thuốc xịt mũi.

Bài viết cùng chuyên mục

Vaccin rubella

Vaccin rubella là loại vaccin virus sống, giảm độc lực, dạng đông khô. Ðã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để sản xuất vaccin này.

Vaccin sốt vàng

Vaccin sốt vàng có tác dụng thúc đẩy hình thành miễn dịch chủ động đối với bệnh sốt vàng, được dùng cho những người có nguy cơ phơi nhiễm cao.

Vaccin não mô cầu

Vaccin não mô cầu có tác dụng kích thích miễn dịch chủ động đối với Neisseria meningitidis; khả năng bảo vệ chỉ có đối với vi khuẩn thuộc nhóm huyết thanh nào có trong vaccin.

Vecuronium

Vecuronium bromid là thuốc phong bế thần kinh - cơ không khử cực, có cấu trúc aminosteroid, với thời gian tác dụng trung bình. Thuốc gắn với thụ thể cholinergic ở màng sau sinap, do đó thuốc phong bế cạnh tranh tác dụng dẫn truyền của acetylcholin ở bản vận động của cơ vân.

Viartril S

Tất cả các bệnh thoái hóa xương khớp, thoái khớp nguyên phát và thứ phát như thoái khớp gối, háng tay, cột sống, vai, viêm quanh khớp, loãng xương, gãy xương teo khớp, viêm khớp mãn và cấp.

Voltaren

Voltaren Emulgel là một thuốc chống viêm và giảm đau có hiệu quả, được sử dụng ngoài da. Thuốc có thành phần hoạt chất tương đương với 1% diclofénac sodique.

Visanne: thuốc điều trị lạc nội mạc tử cung

Visanne (Dienogest) tác động trên nội mạc tử cung bằng cách giảm sản xuất estradiol nội sinh và do đó ức chế tác dụng sinh dưỡng của estradiol trên nội mạc tử cung cả ở vị trí bình thường và lạc chỗ.

Votrient: thuốc điều trị ung thư

Votrient được chỉ định điều trị ung thư biểu mô tế bào thận tiến triển và/hoặc di căn, bệnh nhân người lớn mắc một số phân nhóm chọn lọc của ung thư phần mềm (STS) tiến triển đã dùng hóa trị để điều trị di căn trước đó.

Vincarutine

Thuốc được hấp thu nhanh và đạt nồng độ tối đa trong máu sau 2 giờ. Thuốc được đào thải qua thận gồm 5 chất chuyển hóa và vicamine không bị biến đổi.

Vigadexa

Phòng ngừa viêm & nhiễm khuẩn sau phẫu thuật mắt: 1 giọt x 4 lần/ngày vào bên mắt phẫu thuật, bắt đầu 1 ngày trước phẫu thuật & kéo dài thêm 15 ngày sau phẫu thuật (phẫu thuật đục thủy tinh thể.

Ventolin Nebules

Người lớn và trẻ em: khởi đầu 2.5 mg. Có thể tăng 5 mg. Có thể dùng đến 4 lần/ngày. Điều trị tắc nghẽn đường dẫn khí nặng ở người lớn: liều có thể đến 40 mg/ngày dưới sự giám sát y khoa nghiêm ngặt tại bệnh viện.

Vinorelbine tartrat: thuốc chống ung thư, Navelbine, Vinorelbine, Vinorelsin

Vinorelbin gắn vào tubulin là protein trong vi quản của suốt phân bào, phức hợp tubulin vinorelbin cản trở sự trùng hợp của các tiểu đơn vị tubulin nên các vi quản trong tế bào không được hình thành

Vắc xin Covid-19 EpiVacCorona (Nga): hiệu quả liều lượng và cách sử dụng

Vào tháng Giêng, Nga đã khởi động một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt bao gồm EpiVacCorona. Vào tháng Hai, Tass báo cáo rằng phản ứng miễn dịch từ EpiVacCorona kéo dài “trong khoảng một năm”.

Vitacic

Nhỏ 1 giọt Vitacic vào trong túi kết mạc phía dưới của bên mắt (hoặc 2 mắt) bị bệnh, khi nhỏ mắt phải nhìn hướng lên trên và dùng tay kéo nhẹ mi mắt phía dưới về phía dưới.

Viacoram: thuốc điều trị tăng huyết áp

Viacoram kết hợp hai thuốc chống tăng huyết áp với cơ chế hỗ trợ nhau để kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp vô căn: amlodipin thuộc nhóm thuốc đối kháng kênh canxi và perindopril thuộc nhóm thuốc ức chế men chuyển angiotensin.

Vancomycin hydrochloride

Vancomycin hydrochloride vô khuẩn, USP là một kháng sinh glycopeptide ba vòng dẫn xuất từ Nocardia orientalis (trước đây gọi là Streptomyces orientalis) và có công thức hóa học C66H75Cl2N9O24.HCl.

Verapamil

Verapamil là một thuốc chẹn kênh calci, ngăn cản dòng Ca2+ đi qua kênh, chậm vào tế bào thần kinh dẫn truyền và tế bào cơ tim (tác dụng chống loạn nhịp) và vào tế bào cơ trơn thành mạch (tác dụng giãn mạch).

Vaccin tả

Vaccin tả được dùng để thúc đẩy quá trình miễn dịch chủ động, đối với bệnh tả ở người có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh này.

Vasopressin

Vasopressin là một hormon polypeptid của thùy sau tuyến yên, có tác dụng trực tiếp chống lợi tiểu, nên được gọi là hormon chống bài niệu (ADH).

Verospiron

Không có thuốc giải độc đặc hiệu. Bù nước và chất điện giải : dùng thuốc lợi tiểu thải kali, tiêm glucose + insulin ; trong các trường hợp trầm trọng thì tiến hành thẩm phân.

Velcade

Phản ứng phụ. Thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm lympho bào, giảm toàn bộ huyết cầu, loạn nhịp tim, nhịp tim nhanh, rung nhĩ, hồi hộp, suy tim đợt kịch phát, phù phổi, nhìn mờ.

Vancocin CP

Vancomycin hydrochloride là kháng sinh thuộc nhóm glycopeptide ba vòng, được làm tinh khiết bằng phương pháp sắc ký

Vaccin bại liệt uống

Vaccin Sabin phòng bệnh bại liệt là một hỗn dịch gồm có 3 typ 1, 2, 3 virus bại liệt sống, giảm độc lực. Các virus này được nhân lên trong môi trường nuôi cấy là các tế bào thận khỉ hoặc tế bào VERO.

Victoza

Không cần tự theo dõi glucose huyết để điều chỉnh liều Victoza®. Khởi đầu điều trị bằng Victoza® phối hợp sulphonylurea: tự theo dõi glucose huyết có thể cần thiết để chỉnh liều sulphonylurea.

Voluven

Trong vòng 10 - 20 mL dịch truyền đầu, truyền chậm và theo dõi phát hiện sớm các dấu hiệu của phản ứng dạng phản vệ. Theo dõi liên tục huyết động và ngừng truyền ngay khi đạt mục tiêu phù hợp.