- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Vận chuyển và lưu trữ Amino Acids trong cơ thể
Vận chuyển và lưu trữ Amino Acids trong cơ thể
Sản phẩm của quá trình tiêu hóa protein và hấp thụ trong đường tiêu hóa gần như hoàn toàn là các amino acid; hiếm khi là các polypeptid hoặc toàn bộ phân tử protein được hấp thu quá hệ tiêu hóa vào máu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Amino Acids máu
Nồng độ bình thường của các amino acid trong máu là từ 35-65 mg/dl, tương đương trung bình khoảng 2 fomrgea/dchl của 20 amino acid, mặc dù một số có số lượng nhiều hơn so với các amino acid khác.. Bởi vì các amino acid là acid tương đối mạnh, chúng tồn tại trong máu chủ yếu ở dạng ion hóa, là kết quả của việc chúng tách một nguyên tử hydro từ gốc NH2. Chúng chiếm 2-3 miliequivalents các ion âm trong máu. Sự phân bố chính xác các amino acid khác nhau trong máu phụ thược vào một mức độ nào đó về các loại protein ăn vào, nhưng nồng độ một số amino acid lại được quy định bởi sự tổng hợp ở các loại tế bào khác nhau.

Hình. Các axit amin. 10 axit amin thiết yếu không thể được tổng hợp với số lượng đủ trong cơ thể; các axit amin này phải được thu nhận, đã được hình thành, từ thực phẩm.
Số phận của các amino acid được hấp thụ từ hệ tiêu hóa. Các sản phẩm của quá trình tiêu hóa protein và hấp thụ trong đường tiêu hóa gần như hoàn toàn là các amino acid; hiếm khi là các polypeptid hoặc toàn bộ phân tử protein được hấp thu quá hệ tiêu hóa vào máu. Ngay sau khi ăn, nồng độ amino acid trong máu một người tăng, nhưng nó chỉ tăng khoảng một vài mg/dl, vì hai lý do: thứ nhất: sự tiêu hóa và hấp thụ protein thường kéo dài hơn 2-3 giờ, nó chỉ cho phép một lượng nhỏ amino acid được hấp thu tại một thời điểm. Thứ hai, sau khi vào máu, các amino acid được hấp thu trong vòng 5-10 phút bởi các tế bào khắp cơ thể, đặc biệt là gan. Do đó, nồng độ lớn các amino acid gần như không bao giờ tích tụ trong máu và các mô chất lỏng. Tuy nhiên, nếu tốc độ phân hủy amino acid quá nhanh đó là khi nhiều gram protein có thể được mang từ một phần của cơ thể tới một nơi khác để hình thành amino acid mỗi giờ.
Hoạt động vận chuyển các amino acid vào trong các tế bào. Các phân tử amino acid thì quá lớn để có thể khuếch tán dễ dàng qua các lỗ màng tế bào. Do đó, số lượng lớn các amino acid có thể di chuyển vào bên trong hoặc ra bên ngoài thông qua màng bằng các cổng thông tin hoặc vận chuyển tích cực.
Tái hấp thu Amino Acids ở thận. Trong thận, các amino acid khác nhau có thể được tái hấp thu qua ống thận bằng cách vận chuyển tích cực thứ phát, chúng được lọc khỏi dịch lọc cầu thận và được tái hấp thu về máu khi chúng vào bên trong ống thận qua màng cầu thận. Tuy nhiên, như có một cơ chế vận chuyển tích cực khác trong ống thận, giới hạn tốc độ mỗi loại amino acid có thể được vận chuyển. Vì lý do này, khi nồng độ của một loại amino acid trở nên quá cao trong huyết tương và dịch lọc cầu thận, lượng dư sẽ không được vận chuyển tích cực tái hấp thu qua nước tiểu.
Dự trữ Amino Acids như Proteins trong các tế bào
Sau khi đi vào bên trong các tế bào mô, các amino acid liên kết với nhau bằng liên kết peptid, dưới sự điều khiển của hệ thống mRNA và ribosome của tế bào, hình thành các protein tế bào. Do đó, nồng độ của các amino acid tự do bên trong hầu hết các tế bào thường ở mức thấp và các tế bào không dự trữ một lượng lớn amino acid tự do; thay vào đó, chúng được dự trữ chủ yếu ở dạng protein. Tuy nhiên, rất nhiều các protein trong tế bào có thể được nhanh chóng phân cắt một lần nữa thành các amino acid dưới xúc tác của các enzyme tiêu hóa lysosome trong tế bào. Những amino acid sau đó có thể được vận chuyển trở lại ra khỏi tế bào vào máu. Trường hợp ngoại lệ của quá trình này là các protein trong các nhiễm sắc thể của hạt nhân và các protein cấu trúc như collagen và protein cơ. Những protein này không tha gia quá trình phân cắt và vận chuyển ngược lại ra ngoài tế bào.
Một số mô của cơ thể tham gia vào việc dự trữ các amino acid ở mức độ lớn hơn các mô khác. Ví dụ: gan là một cơ quan lớn và có hệ thống đặc biệt để xử lý các amino acid, chúng có thể dự trữ một lượng lớn protein và chuyển hóa ngược lại nhanh chóng. Ngoài ra còn có thận và niêm mạc ruột nhưng dự trữ ở mức độ thấp hơn.
Giải phóng các amino acid từ tế bào để điều tiết nồng độ amino acid huyết tương. Bất cứ khi nào nồng độ acid amino huyết tương giảm xuống dưới mức bình thường, các amino acid cần thiết được vận chuyển ra khỏi tế bào để bổ sung nguồn cung cấp của chúng trong huyết tương. Bằng cách này, nồng độ trong huyết tương của từng loại amino acid được duy trù ở một giá trị không đổi thích hợp. Song một số các hormone được tiết ra bởi các tuyến nội tiết có thể làm thay đổi sự cân bằng giữa protein mô và amino acid huyết tương. Ví dụ, hormone tăng trưởng và insulin làm tăng sự hình thành protein mô, trong khi hormone glucocorticoid vỏ não làm tăng nồng độ amino acid huyết tương.
Trạng thái cân bằng có hồi phục giữa các protein trong các phần khác nhau của cơ thể. Vì các protein trong gan (và với mức độ ít hơn trong các mô khác) có thể được tổng hợp nhanh từ các amino acid huyết tương, và bởi vì nhiều protein có thể bị giáng cấp để trở lại huyết tương gần như một cách nhanh chóng, sự thay đổi xảy ra liên tục và cân bằng giữa amino acid huyết tương và protein xảy ra trong tất cả tế bào trong cơ thể. Ví dụ, nếu một mô cụ thể cần protein, nó có thể tổng hợp protein mới từ các axit amin của máu; đến lượt nó, các axit amin trong máu được bổ sung bằng cách thoái hóa protein từ các tế bào khác của cơ thể, đặc biệt là từ các tế bào gan. Những tác động này đặc biệt đáng chú ý liên quan đến sự tổng hợp protein trong tế bào ung thư. Tế bào ung thư thường là những người sử dụng nhiều axit amin; do đó, các protein của các tế bào khác có thể trở nên cạn kiệt rõ rệt.
Giới hạn trên đối với dự trữ lượng Proteins. Mỗi loại tế bào cụ thể có một giới hạn trên đối với lượng protein chúng có thể dự trữ. Sau khi tất cả các tế bào đã đạt tới giới hạn của nó, các amino acid thường còn lưu thông trong cơ thể sẽ bị phân hủy thành các sản phẩm khác và sử dụng năng lượng, sẽ được giải thích sau, hoặc chúng được chuyển đổi thành chất béo hoặc glycogen và dự trữ dưới các hình thức.
Bài viết cùng chuyên mục
Trạm thần kinh: sự dẫn truyền và xử lý các tín hiệu
Hệ thần kinh trung ương bao gồm hàng nghìn đến hàng triệu trạm thần kinh; một số trạm chứa vài nơ-ron, trong khi những trạm khác chứa số lượng nơ-ron lớn.
Vòng phản xạ thần kinh: tín hiệu đầu ra liên tục
Các nơ-ron, giống các mô bị kích thích khác, phóng xung lặp đi lặp lại nếu mức điện thế màng kích thích tăng lên trên một ngưỡng nào đó. Điện thế màng của nhiều nơ-ron bình thường vẫn cao đủ để khiến chúng phóng xung liên tục.
Acid béo với alpha Glycerophosphate để tạo thành Triglycerides
Quá trình tổng hợp triglycerides, chỉ có khoảng 15% năng lượng ban đầu trong đường bị mất đi dưới dạng tạo nhiệt, còn lại 85% được chuyển sang dạng dự trữ triglycerides.
Giải phóng năng lượng cho cơ thể bằng con đường kỵ khí - Đường phân kỵ khí
Lactic acid được tổng hợp trong quá trình đường phân kỵ khí không mất đi khỏi cơ thể bởi vì khi oxy đầy đủ trở lại, lactic acid có thể chuyền về thành glucose hoặc được sử dụng chính xác để giải phóng năng lượng.
Điều hòa bài tiết Aldosterol
Điều hòa bài tiết aldosterol ở tế bào lớp cầu gần như độc lập hoàn toàn với điều hòa bài tiết cảu costisol và androgen ở lớp bó và lớp lưới.
Điều hòa lưu lượng máu bằng những thay đổi trong mạch máu mô
Sự tái tạo vật chất của mạch xảy ra để đáp ứng với nhu cầu của mô. Sự tái cấu trúc này xảy ra nhanh trong vòng vài ngày ở những động vật non. Nó cũng xảy ra nhanh ở những mô mới lớn như mô sẹo, mô ung thư.
Giải phẫu sinh lý của bài tiết dịch mật
Thành phần của dịch mật ban đầu khi được bài tiết bởi gan và sau khi được cô đặc trong túi mật. Phần lớn chất được bài tiết bên trong dịch mật là muối mật, chiếm khoảng một nửa trong tổng số các chất được hòa tan trong dịch mật.
Sự thích nghi của áp suất ô xy máu thấp và ảnh hưởng cấp của giảm ô xy máu
Một trong ảnh hưởng quan trọng nhất của giảm oxy máu là giảm nhận thức, gây nên giảm tư duy, trí nhớ, và hiệu suất của các vận động phức tạp.
Tầm quan trọng của trung tâm thưởng phạt của hệ limbic đối với hành vi
Trải nghiệm của con vật qua trải nghiệm cảm giác gây ra trạng thái thưởng hay phạt sẽ được ghi nhớ lại. Điện não đồ cho thấy yếu tố trải nghiệm cảm giác luôn luôn kích thích nhiều vùng trên vỏ não.
Nghiên cứu chức năng hô hấp: ký hiệu và biểu tượng thường sử dụng trong thăm dò
Sử dụng các ký hiệu này, chúng tôi trình bày ở đây một số bài tập đại số đơn giản cho thấy một số mối quan hệ qua lại giữa các thể tích và dung tích phổi, nên suy nghĩ thấu đáo và xác minh những mối tương quan này.
Tác dụng của insulin lên chuyển hóa protein và tăng trưởng
Cách mà insulin làm tăng tổng hợp protein chưa được hiểu rõ như với cơ chế trong dự trữ glucose và chất béo. Đây là một vài kết quả ghi nhận trong thực tế.
Chu kỳ gan ruột của muối mật trong tiêu hóa và hấp thu chất béo
Khoảng 94% muối mật ở ruột non sẽ được tái hấp thu vào trong máu, khoảng một nửa số này sẽ được khuếch tán qua niêm mạc ruột non và phần còn lại được tái hấp thu thông qua quá tŕnh vận chuyển tích cực ở niêm mạc ruột.
Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.
Phosphate vô cơ ở dịch ngoại bào
Giá trị trung bình của tổng số lương phosphate đươc đưa ra khoảng 4 mg/dl, thay đổi giữa giá trị bình thường là 3 đến 4 mg/dl người lớn and 4 đến 5 mg/dl ở trẻ nhỏ.
Cấu trúc của màng bào tương
Màng bào tương của các tế bào động vật điển hình có tỉ lệ về mặt khối lượng giữa protein và lipid xấp xỉ 1: 1 và tỉ lệ về mặt số lượng phân tử giữa chúng là 1 protein: 50 lipid.
Chức năng của progesterone
Progesteron cũng làm gia tăng chế tiết ở niêm mạc lót bên trong vòi Fallope. Những sự chế tiết này rất quan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng cho noãn tồn tại và phân chia khi nó di chuyển trong vòi Fallope trước khi làm tổ ở tử cung.
Điều hòa hoạt động của tim bằng cơ chế thần kinh
Cơ chế điều hòa hoạt động tim thông qua phản xạ thần kinh và thể dịch, là yếu tố đặc biệt quan trọng để tăng cung lượng tim khi mạng ngoại vi giám, tăng tuần hoàn tĩnh mạch.
Kiểm soát hành vi đối với nhiệt độ cơ thể
Kiểm soát hành vi đối với nhiệt độ cơ thể là một cơ chế điều nhiệt hữu hiệu hơn nhiều các nhà sinh lý học từng thừa nhận trước đây, nó là một cơ chế thực sự hữu hiệu để duy trì nhiệt độ trong các môi trường rất lạnh.
Vùng vận động bổ xung: chức năng vận động của vỏ não và thân não
Vùng vận động bổ sung có bản đồ hình chiếu khác nữa để chi phối chức năng vận động. Vùng này nằm chủ yếu ở khe dọc giữa nhưng kéo dài vài cm lên trên vùng vỏ não trán trên.
Những hệ thống kiểm soát hằng số nội môi ở trẻ sinh thiếu tháng
Những hệ thống cơ quan khác nhau chưa hoàn thiện chức năng ở trẻ sơ sinh thiếu tháng làm cho các cơ chế hằng định nội môi của cơ thể không ổn định.
Thích nghi của trẻ sơ sinh với cuộc sống ngoài tử cung
Sau khi đứa bé ra khỏi người mẹ không được gây mê, đứa bé thường bắt đầu thở trong vài giây và nhịp thở bình thường đạt được trong vòng 1 phút sau khi sinh.
Cấu tạo tế bào cơ thể người
Để hiểu được chức năng của các cơ quan và các cấu trúc khác của cơ thể, đầu tiên chúng ta cần hiểu được những cấu trúc cơ bản của tế bào và chức năng của những bộ phận cấu thành nên nó.
Dẫn truyền synap: một số đặc điểm đặc biệt
Quá trình thông tin được truyền qua synap phải qua nhiều bước: đưa các bọc nhỏ xuống, hòa màng với màng của cúc tận cùng, chất truyền đạt giải phóng và khuếch tán trong khe synap, gắn với receptor ở màng sau synap, mở kênh ion gây khử cực màng.
Sóng khử cực và sóng tái cực: điện tâm đồ bình thường
ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T. Phức bộ QRS thường có, nhưng không phải luôn luôn, ba sóng riêng biệt: sóng Q, sóng R, và sóng S.
Vận chuyển dịch ngoại bào và trộn lẫn máu trong hệ tuần hoàn
Thành của các mao mạch cho thấm qua hầu hết các phân tử trong huyết tương của máu,ngoại trừ thành phần protein huyết tương, có thể do kích thước của chúng quá lớnđể đi qua các mao mạch.
