- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Kiểm soát lưu lượng mạch vành
Kiểm soát lưu lượng mạch vành
Điều hòa lưu lượng máu. Lưu lượng máu trong động mạch vành thường được điều chỉnh gần như chính xác tương ứng với nhu cầu oxy của cơ tim.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chuyển hóa cơ cục bộ là yếu tố điều khiển chính của lưu lượng mạch vành
Lưu lượng máu qua hệ thống mạch vành được điều chỉnh chủ yếu bằng cách giãn mạch tại các tiểu động mạch để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ tim. Tức là mỗi khi tăng cường sức co bóp của tim thì tốc độ lưu lượng máu mạch vành cũng tăng theo. Ngược lại, tim giảm hoạt động kèm theo giảm lưu lượng mạch vành.
Điều hòa cục bộ của lưu lượng máu mạch vành tương tự như xảy ra ở nhiều mô khác của cơ thể, đặc biệt là trong cơ xương.
Nhu cầu oxy như một yếu tố chính trong động mạch vành cục bộ
Điều hòa lưu lượng máu. Lưu lượng máu trong động mạch vành thường được điều chỉnh gần như chính xác tương ứng với nhu cầu oxy của cơ tim.
Thông thường, khoảng 70 phần trăm oxy trong máu động mạch vành được sử dụng khi máu chảy qua cơ tim. Bởi vì lượng oxy còn lại không nhiều, có thể được cung cấp ít oxy bổ sung cho cơ tim trừ khi lưu lượng máu mạch vành tăng lên. May mắn thay, lưu lượng máu mạch vành tăng gần như tỷ lệ thuận với bất kỳ sự tiêu thụ oxy chuyển hóa bổ sung nào của tim.
Phương tiện chính xác làm tăng tiêu thụ oxy gây giãn mạch vành vẫn chưa được xác định.
Nhiều nhà nghiên cứu suy đoán rằng sự giảm nồng độ oxy trong tim làm cho các chất giãn mạch được giải phóng khỏi các tế bào cơ và các chất này làm giãn các tiểu động mạch. Một chất có khuynh hướng giãn mạch lớn là adenosine. Khi có nồng độ oxy rất thấp trong các tế bào cơ, một phần lớn ATP của tế bào bị phân giải thành adenosine monophosphate. Các phần nhỏ của chất này sau đó bị phân hủy thêm và giải phóng adenosine vào dịch mô của cơ tim, làm tăng lưu lượng máu tại chỗ. Sau khi adenosine gây giãn mạch, phần lớn nó được tái hấp thu vào tế bào tim để tái sử dụng để sản xuất ATP.
Adenosine không phải là sản phẩm giãn mạch duy nhất đã được xác định; những chất khác bao gồm hợp chất adenosine phosphate, ion kali, ion hydro, carbon dioxide, prostaglandin và oxit nitric. Cơ chế giãn mạch vành trong quá trình tăng hoạt động của tim vẫn chưa được adenosine giải thích đầy đủ. Các tác nhân dược lý ngăn chặn hoặc ngăn chặn một phần tác dụng giãn mạch của adenosine không ngăn cản giãn mạch vành do tăng cơ tim cũng cho thấy rằng tiếp tục truyền adenosine chỉ duy trì sự giãn mạch trong 1 đến 3 giờ, và hoạt động của cơ vẫn làm giãn mạch cục bộ. Ngay cả khi adenosine không còn có thể làm giãn chúng. Do đó, các cơ chế giãn mạch khác được liệt kê trước đó nên được ghi nhớ.
Kiểm soát thần kinh với lưu lượng máu mạch vành
Kích thích các dây thần kinh tự chủ đến tim có thể ảnh hưởng đến lưu lượng máu mạch vành cả trực tiếp và gián tiếp.
Các tác động trực tiếp là do hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine từ dây thần kinh phế vị và norepinephrine từ dây thần kinh giao cảm trên mạch vành. Các tác động gián tiếp là kết quả của những thay đổi thứ phát trong lưu lượng máu mạch vành do tăng hoặc giảm hoạt động của tim.
Các tác động gián tiếp, hầu hết trái ngược với các tác động trực tiếp, đóng vai trò quan trọng hơn nhiều trong việc kiểm soát bình thường lưu lượng máu mạch vành. Vì vậy, kích thích giao cảm giải phóng norepinephrine từ thần kinh giao cảm và epinephrine cũng như norepinephrine từ tủy thượng thận, làm tăng nhịp tim và sức co bóp của tim và tăng tốc độ chuyển hóa của tim. Đổi lại, sự trao đổi chất tăng lên của tim tạo ra cơ chế điều hòa lưu lượng máu cục bộ để làm giãn mạch vành, và lưu lượng máu tăng lên tương ứng với nhu cầu trao đổi chất của cơ tim. Ngược lại, kích thích phế vị, với việc giải phóng acetylcholine, làm tim đập chậm lại và có tác dụng suy giảm nhẹ đối với sự co bóp của tim. Những tác động này làm giảm tiêu thụ oxy của tim và do đó, gián tiếp làm co mạch vành.
Ảnh hưởng trực tiếp của kích thích thần kinh lên mạch vành
Mạch máu. Sự phân bố của các sợi thần kinh phó giao cảm (phế vị) đến hệ thống vành tâm thất là không nhiều. Tuy nhiên, acetylcholin được giải phóng do kích thích phó giao cảm có tác dụng trực tiếp làm giãn mạch vành.
Sự mở rộng giao cảm rộng hơn của mạch vành xảy ra. Các chất dẫn truyền giao cảm norepinephrine và epinephrine có thể có tác dụng co thắt mạch máu hoặc giãn mạch máu, tùy thuộc vào sự hiện diện hoặc vắng mặt của các thụ thể co thắt hoặc giãn mạch trong thành mạch máu. Các thụ thể co thắt được gọi là thụ thể alpha và các thụ thể làm giãn được gọi là thụ thể beta. Cả hai thụ thể alpha và beta đều tồn tại trong mạch vành. Nói chung, các mạch vành thượng tâm mạc có ưu thế đối với các thụ thể alpha, trong khi các động mạch cơ có thể có ưu thế hơn đối với các thụ thể beta. Do đó, ít nhất về mặt lý thuyết, kích thích giao cảm có thể gây co thắt hoặc giãn mạch vành tổng thể nhẹ, nhưng thường là co thắt. Ở một số người, tác dụng co mạch alpha có vẻ nghiêm trọng không tương xứng, và những người này có thể bị thiếu máu cục bộ cơ tim do co thắt mạch máu trong thời gian thừa truyền động giao cảm, thường kèm theo đau thắt ngực.
Các yếu tố chuyển hóa, đặc biệt là tiêu thụ oxy của cơ tim, là những yếu tố điều khiển chính lưu lượng máu của cơ tim. Bất cứ khi nào tác động trực tiếp của kích thích thần kinh làm giảm lưu lượng máu mạch vành, việc kiểm soát chuyển hóa của lưu lượng mạch vành thường đè các tác động trực tiếp thần kinh vành trong vòng vài giây.
Bài viết cùng chuyên mục
Chức năng của não và giao tiếp - ngôn ngữ vào và ngôn ngữ ra
Dưới sự hỗ trợ của bản đồ giải phẫu đường đi thần kinh, chức năng của vỏ não trong giao tiếp. Từ đây chúng ta sé thấy nguyên tắc của phân tích cảm giác và điều khiển vận động được thực hiện như thế nào.
Vận chuyển lipids trong dịch cơ thể
Cholesterol và phospholipid được hấp thụ từ hệ thống ruột vào trong chylomicron. Vì thế dù chylomicron được cấu tạo chủ yếu từ triglycerides, chúng còn chứa phospholipid, cholesterol và apoprotein B.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau của trục dưới đồi tuyến yên buồng trứng
Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, và được gọi là chu kì không rụng trứng. Các giai đoạn của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên trứng không rụng làm cho hoàng thể không phát triển.
Bài tiết hormone tăng trưởng (GH) của vùng dưới đồi, hormone kích thích tiết GH, và somatostatin
Hầu hết sự điều khiển bài tiết hormone GH có lẽ thông qua hormone GHRH hơn là hormone somatostatin, GHRH kích thích bài tiết GH qua việc gắn với các receptor đặc hiệu trên bề mặt màng ngoài của các tế bào tiết GH ở thùy yên trước.
Chức năng thần kinh: xử lý của synap và lưu trữ thông tin
Synap là điểm tiếp nối từ dây thần kinh này đến dây thần kinh khác. Tuy nhiên, điều quan trọng được nói đến ở đây là các synap này sẽ giúp cho sự lan truyền của tín hiệu thần kinh đi theo những hướng nhất định.
Chuyển động mắt theo đuổi: chú ý các đối tượng chuyển động
Nếu một đối tượng chuyển động lên xuống kiểu sóng với tốc độ vài lần mỗi giây, mắt đầu tiên có thể không chú ý vào nó. Tuy nhiên, sau một giây hoặc lâu hơn, mắt bắt đầu cử động bằng cách giật.
Kích thích thần kinh: thay đổi điện thế qua màng
Một điện thế qua màng tế bào có thể chống lại sự chuyển động của các ion qua màng nếu điện thế đó thích hợp và đủ lớn. Sự khác nhau về nồng độ trên màng tế bào thần kinh của ba ion quan trọng nhất đối với chức năng thần kinh: ion natri, ion kali, và ion clorua.
Thành phần dịch trong cơ thể người
Ở người trưởng thành, tổng lượng dịch trong cơ thể khoảng 42L, chiếm 60% trọng lượng. Tỉ lệ này còn phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và thể trạng từng người.
Hormone parathyroid (tuyến cận giáp)
Tuyến cận giáp của con người trưởng thành, chứa chủ yếu là các tế bào chính và một số lượng nhỏ đến trung bình các tế bào oxyphil, nhưng tế bào oxyphil vắng mặt ở nhiều loài động vật cũng như ở người trẻ.
Cấu tạo cơ bản của một tế bào động vật
Các bào quan và thể vùi nằm lơ lững trong dịch tế tương. Từ bào tương (cytoplasm) dùng để bao hàm cả dịch tế bào, tất cả các bào quan.
Corticosteroid: Mineralocorticoid, Glucocorticoids và Androgen
Vỏ thượng thận tiết 2 loại hormon chính là mineralocorticoid và glucocorticoid, thêm vào đó nó còn tiết 1 lượng nhỏ hormon sinh dục, đặc biệt hormon androgen, tác dụng giống hormon sinh dục testosteron.
Tiếng tim bình thường: nghe tim bằng ống nghe
Các vị trí để nghe tiếng tim không trực tiếp trên chính khu vực van của chúng. Khu vực của động mạch chủ là hướng lên dọc theo động mạch chủ, và khu vực của động mạch phổi là đi lên dọc theo động mạch phổi.
Synap thần kinh trung ương: Receptor kích thích hay ức chế tại màng sau synap
Thay đổi về quá trình chuyển hóa nội bào ví dụ như làm tăng số lượng thụ thể màng kích thích hoặc giảm số lượng thụ thể màng ức chế cũng có thể kích thích hoạt động của tế bào thần kinh.
Cấu tạo và chức năng các thành phần của răng
Cấu trúc tinh thể của muối làm cho men răng vô cùng cứng, cứng hơn nhiều so với ngà răng. Ngoài ra, lưới protein đặc biệt, mặc dù chỉ chiếm khoảng 1 phần trăm khối lượng men răng, nhưng làm cho răng có thể kháng axit, enzym.
Hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột non
Hấp thu carbohydrate, hấp thu glucose, hấp thu protein dưới dạng dipeptit, tripeptit hoặc axit amin, hấp thu chất béo và hấp thu các monosaccharide khác.
Chức năng của Lipoproteins trong vận chuyển Cholesterol và Phospholipids
Hầu hết các lipoprotein được hình thành ở gan, đó cũng là nơi mà hầu hết các cholesterol huyết tương, phospholipid và triglycerides được tổng hợp.
Synap thần kinh trung ương: giải phẫu sinh lý của synap
Nhiều nghiên cứu về synap cho thấy chúng có nhiều hình dáng giải phẫu khác nhau, nhưng hầu hết chúng nhìn như là cái nút bấm hình tròn hoặc hình bầu dục, do đó, nó hay được gọi là: cúc tận cùng, nút synap, hay mụn synap.
Cơ chế bài tiết insulin
Bên trong tế bào, glucose được phosphoryl hóa thành glucose-6-phosphate bởi glucokinase. Sự phosphoryl hóa này có một ngưỡng cho chuyển hóa glucose ở tế bào beta, được cho là cơ chế chính của sự nhạy cảm với glucose gây tiết insulin.
Phế nang: tốc độ thông khí của phế nang
Một trong những chức năng quan trọng của đường hô hấp là giữ chúng luôn mở và cho phép không khí đi lại đến phế nang dễ dàng. Để giữ khí quản khỏi xẹp, nhờ có sụn nhẫn.
Tầm quan trọng của trung tâm thưởng phạt của hệ limbic đối với hành vi
Trải nghiệm của con vật qua trải nghiệm cảm giác gây ra trạng thái thưởng hay phạt sẽ được ghi nhớ lại. Điện não đồ cho thấy yếu tố trải nghiệm cảm giác luôn luôn kích thích nhiều vùng trên vỏ não.
Cảm giác xúc giác: sự phát hiện và dẫn truyền
Mặc dù, cảm giác đụng chạm, áp lực và rung là phân loại thường gặp khi phân chia các cảm giác, nhưng chúng được nhận biết bởi các loại receptor giống nhau.
Dẫn truyền các tín hiệu cảm giác: con đường trước bên cho tín hiệu ít quan trọng
Đa số tín hiệu đau tận cùng ở nhân lưới cuả thân não và từ đây, chúng được chuyển tiếp đến nhận liềm trong của đồi thị, nơi các tín hiệu đau được xử lí tiếp.
Những hệ thống kiểm soát hằng số nội môi ở trẻ sinh thiếu tháng
Những hệ thống cơ quan khác nhau chưa hoàn thiện chức năng ở trẻ sơ sinh thiếu tháng làm cho các cơ chế hằng định nội môi của cơ thể không ổn định.
Cặp kích thích co cơ tim: chức năng của ion canxi và các ống ngang
Sức co bóp của cơ tim phụ thuộc rất lớn vào nống độ ion canxi trong dịch ngoại bào, một quả tim đặt trong một dung dịch không có canxi sẽ nhanh chóng ngừng đập.
Hàng rào chắn lipid của màng tế bào và các protein mang trên màng tế bào
Các phân tử protein trong màng tế bào các toàn bộ các tính chất của một chất vận chuyển. Cấu trúc phân tử của chúng làm gián đoạn tính liên tục của màng bào tương, tạo sự thay đổi cấu trúc vượt qua màng tế bào.
