Rotarix: thuốc phòng ngừa viêm dạ dày ruột do rotavirus

2021-02-04 01:50 PM

Trong các thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả Rotarix đã được chứng minh chống lại viêm dạ dày-ruột do rotavirus của các chủng phổ biến như G1P và các chủng rotavirus không phổ biến như G8P gây viêm dạ dày-ruột nặng và G12P gây viêm dạ dày-ruột ở bất kỳ mức độ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

GlaxoSmithKline.

Thành phần

Một liều (1,5mL): không dưới 106.0 CCID50 chủng Rotavirus người sống giảm độc lực RIX4414.

Mô tả

Vắc-xin ở dạng chất lỏng trong và không màu.

Porcine Circovirus nhóm 1 (PCV-1) được phát hiện có trong vắc-xin Rotarix. PCV-1 được biết không phải là nguyên nhân gây ra bệnh ở động vật và không lây nhiễm hay gây bệnh ở người. Không có bằng chứng cho thấy sự hiện diện của PCV-1 gây ra nguy cơ nào về tính an toàn.

Nhóm dược trị liệu: vắc-xin vi rút, mã ATC: J07BH01.

Đặc tính dược lực học

Hiệu quả bảo vệ

Trong các thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả đã được chứng minh chống lại viêm dạ dày-ruột do rotavirus của các chủng phổ biến như G1P[8], G2P[4], G3P[8], G4P[8] và G9P[8] và các chủng rotavirus không phổ biến như G8P[4] (gây viêm dạ dày-ruột nặng) và G12P[6] (gây viêm dạ dày-ruột ở bất kỳ mức độ). Tất cả các chủng này đều lưu hành trên thế giới.

Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã được tiến hành ở châu Âu, Mỹ La Tinh, châu Phi và châu Á để đánh giá hiệu quả bảo vệ của Rotarix chống lại rotavirus gây viêm dạ dày ruột mức độ nặng và bất kỳ.

Mức độ nghiêm trọng của viêm dạ dày-ruột được xác định theo hai tiêu chí khác nhau sau đây:

Thang điểm 20 Vesikari, đánh giá tổng thể bệnh cảnh lâm sàng của viêm dạ dày ruột do rotavirus có tính đến mức độ nghiêm trọng và thời gian bị tiêu chảy và nôn mửa, mức độ sốt cao và mất nước cũng như nhu cầu điều trị hoặc

Các trường hợp trên lâm sàng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Hiệu quả bảo vệ ở châu Âu và châu Mỹ La Tinh

Hiệu quả bảo vệ của vắc-xin sau khi uống hai liều Rotarix được quan sát trong các nghiên cứu lâm sàng tiến hành ở châu Âu và châu Mỹ La Tinh trong suốt năm đầu và năm tuổi thứ 2 gộp lại và được thể hiện.

Hiệu quả của vắc-xin chống lại viêm dạ dày-ruột nặng do rotavirus chủng G2P[4] là 38,6% (95% CI: <0,0; 84,2). Số các trường hợp để ước tính hiệu quả vắc-xin chống lại G2P[4] là rất ít.

Một nghiên cứu tổng hợp gồm 4 nghiên cứu về hiệu quả cho thấy hiệu quả chống lại viêm dạ dày ruột nặng do rotavirus chủng G2P[4] (điểm Vesikari ≥11) là 71,4% (95% CI: 20,1; 91,1).

Có thể ngoại suy mức độ hiệu quả bảo vệ của dạng đông khô cho dạng hỗn dịch, do đáp ứng miễn dịch quan sát được sau khi uống ngừa 2 liều Rotarix dạng hỗn dịch là tương đương với đáp ứng miễn dịch sau khi uống ngừa 2 liều Rotarix dạng đông khô.

Hiệu quả bảo vệ ở châu Phi

Một nghiên cứu lâm sàng được tiến hành ở châu Phi trên hơn 4.900 đối tượng dùng Rotarix ở tuổi từ 10 và 14 tuần tuổi (2 liều) hoặc 6, 10 và 14 tuần (3 liều). Hiệu quả của vắc-xin chống lại viêm dạ dày ruột nặng do rotavirus trong năm tuổi đầu tiên là 61,2% (95% CI: 44,0; 73,2). Nghiên cứu không đánh giá sự khác biệt về hiệu quả giữa liệu trình chủng ngừa 2 liều và 3 liều.

Hiệu quả bảo vệ của vắc-xin chống lại viêm dạ dày ruột mức độ nặng và mức độ bất kỳ đã được quan sát và thể hiện.

Hiệu quả kéo dài đến 3 tuổi ở châu Á

Một nghiên cứu lâm sàng tiến hành ở châu Á (Hồng Kông, Singapore và Đài Loan) trên hơn 10.000 đối tượng được dùng Rotarix theo các liệu trình khác nhau (2, 4 tháng tuổi; 3, 4 tháng tuổi).

Sau khi dùng 2 liều Rotarix, hiệu quả bảo vệ của vắc-xin quan sát đến khi 3 tuổi được thể hiện.

Đáp ứng miễn dịch

Trong các nghiên cứu lâm sàng khác nhau tiến hành ở châu Âu, châu Mỹ La Tinh và châu Á, 1.957 trẻ sơ sinh đã được cho uống Rotarix dạng đông khô và 1006 trẻ sơ sinh dùng placebo theo các liệu trình chủng ngừa khác nhau. Tỷ lệ phần trăm số trẻ ban đầu có huyết thanh âm tính với rotavirus (hiệu giá kháng thể IgA <20 U/mL (bằng phương pháp ELISA) so với hiệu giá kháng thể IgA kháng rotavirus trong huyết thanh ≥20 U/mL dao động trong khoảng 77,9% đến 100% và từ 0% đến 17,1% một hoặc hai tháng sau liều vắc-xin thứ hai hay placebo.

Trong ba thử nghiệm lâm sàng so sánh, đáp ứng miễn dịch tạo ra bởi Rotarix dạng hỗn dịch là tương đương với đáp ứng miễn dịch gây ra bởi Rotarix dạng đông khô.

Trong một nghiên cứu lâm sàng tiến hành ở châu Phi, đáp ứng miễn dịch được đánh giá trên 332 trẻ sơ sinh dùng Rotarix (N=221) hoặc placebo (N=111) theo liệu trình 10 và 14 tuần (2 liều) hoặc 6, 10 và 14 tuần (3 liều). Tỷ lệ phần trăm số trẻ ban đầu có huyết thanh âm tính với rotavirus (hiệu giá kháng thể IgA <20 U/mL (bằng phương pháp ELISA) so với hiệu giá kháng thể IgA kháng rotavirus trong huyết thanh ≥20 U/mL một tháng sau liều vắc-xin hoặc placebo cuối cùng tương ứng là 58,4% và 22,5%.

Đáp ứng miễn dịch ở trẻ sinh non

Trong một nghiên cứu lâm sàng ở trẻ đẻ non sử dụng dạng đông khô, Rotarix tạo ra đáp ứng miễn dịch; 85,7% trẻ đạt được hiệu giá kháng thể IgA kháng rotavirus trong huyết thanh ≥20 U/mL (bằng phương pháp ELISA) một tháng sau khi dùng liều vắc-xin thứ hai.

An toàn cho trẻ bị hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV)

Trong một nghiên cứu lâm sàng, 100 trẻ bị hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV) được chỉ định dùng Rotarix dạng đông khô hoặc placebo. Dữ liệu an toàn là như nhau giữa hai nhóm dùng Rotarix và placebo.

Sự bài tiết vi rút có trong vắc-xin qua phân

Vi rút có trong vắc-xin bài tiết qua phân sau khi uống và kéo dài trung bình khoảng 10 ngày, nhiều nhất vào ngày thứ 7. Đã tìm thấy các phân tử kháng nguyên của vi rút phát hiện bằng ELISA, ở khoảng 50% mẫu phân sau liều đầu tiên và khoảng 4% mẫu phân sau liều thứ 2. Khi kiểm tra sự hiện diện của chủng vắc-xin sống 17% mẫu phân này cho kết quả dương tính.

Trong hai thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng so sánh, bài tiết vi rút có trong vắc-xin sau chủng ngừa là tương đương nhau giữa vắc-xin Rotarix dạng hỗn dịch và dạng đông khô.

Hiệu quả thực tế của vắc-xin

Trong các nghiên cứu quan sát, hiệu quả của vắc-xin đã được chứng minh chống lại viêm dạ dày-ruột nặng dẫn đến nhập viện do rotavirus của các chủng phổ biến như G1P[8], G2P[4], G3P[8] và G9P[8] cũng như các chủng rotavirus ít phổ biến hơn như G9P[4] và G9P[6]. Tất cả các chủng này đều đang lưu hành trên thế giới.

Kết quả của các nghiên cứu bệnh-chứng bắt cặp được tiến hành để đánh giá hiệu quả của Rotarix phòng viêm dạ dày ruột nặng do rotavirus phải nhập viện.

Ảnh hưởng đến tỉ lệ tử vong

Các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Rotarix được tiến hành ở Panama, Brazil và Mexico cho thấy tỉ lệ tử vong do tiêu chảy do mọi nguyên nhân giảm từ 22% đến 56% ở trẻ em dưới 5 tuổi, trong vòng 2 đến 3 năm sau khi uống vắc-xin.

Ảnh hưởng đến tỉ lệ nhập viện

Trong một nghiên cứu dữ liệu hồi cứu ở Bỉ được tiến hành ở trẻ em từ 5 tuổi trở xuống, tác động trực tiếp và gián tiếp của việc uống ngừa vắc-xin Rotarix đến tỉ lệ nhập viện liên quan đến rotavirus vào khoảng từ 64% (95% CI: 49; 76) đến 80% (95% CI: 77; 83) sau 2 năm uống ngừa vắc-xin. Các nghiên cứu tương tự  ở Brazil, Australia và El Salvador cũng cho thấy tỉ lệ nhập viện giảm từ 45 đến 88%.

Hơn nữa, 2 nghiên cứu về tỉ lệ nhập viện do tiêu chảy do mọi nguyên nhân được tiến hành ở châu Mỹ La Tinh cho thấy tỉ lệ nhập viện giảm từ 38 đến 40% sau khi uống ngừa vắc-xin 4 năm.

LƯU Ý: Những nghiên cứu về sự ảnh hưởng của vắc-xin được thiết lập mối liên hệ về mặt thời gian chứ không phải mối quan hệ nguyên nhân-kết quả giữa bệnh tật và chủng ngừa.

Dược động học

Không yêu cầu đánh giá đặc tính dược động học đối với vắc-xin.

Dữ liệu về tính an toàn tiền lâm sàng

Số liệu an toàn tiền lâm sàng không cho thấy sự nguy hiểm cho người dựa trên nghiên cứu với liều gây độc nhắc lại.

Dược động học

Không yêu cầu đánh giá đặc tính dược động học đối với vắc-xin.

Chỉ định và công dụng

Rotarix được chỉ định để phòng ngừa viêm dạ dày ruột do rotavirus.

Liều lượng và cách dùng

Liều lượng

Phác đồ uống ngừa gồm 2 liều. Liều đầu tiên có thể được chỉ định từ 6 tuần tuổi. Khoảng cách giữa các liều ít nhất là 4 tuần. Nên hoàn thành liệu trình uống ngừa đến 24 tuần tuổi.

Có thể sử dụng Rotarix cho trẻ sinh non tháng với cùng một liều lượng.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, hiếm quan sát thấy hiện tượng nhổ hoặc trớ khi uống xin, trong trường hợp này không cần uống liều thay thế. Tuy nhiên, nếu trẻ nhổ hoặc trớ ra hầu hết lượng vắc-xin uống vào thì liều đơn thay thế có thể được chỉ định trong cùng lần uống vắc-xin này.

Cần phải nhấn mạnh rằng những trẻ đã uống liều thứ nhất bằng Rotarix thì nên uống liều thứ 2 cũng bằng Rotarix.

Không nên dùng Rotarix cho trẻ trên 24 tuần tuổi.

Cách dùng

Rotarix chỉ được sử dụng theo đường uống.

Không được tiêm Rotarix trong bất kỳ trường hợp nào.

Không hạn chế thức ăn hoặc nước uống của trẻ, kể cả sữa mẹ trước hoặc sau khi uống vắc-xin.

Bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy việc cho trẻ bú sữa mẹ không làm giảm khả năng bảo vệ chống viêm dạ dày – ruột do rotavirus được tạo bởi Rotarix. Do đó, nên tiếp tục cho trẻ bú mẹ trong thời gian uống vắc-xin.

Hướng dẫn sử dụng

Vắc-xin ở dạng lỏng trong, không màu, không có các phần tử lạ, được sử dụng để uống.

Vắc-xin được sử dụng ngay (không cần hồi chỉnh hoặc pha loãng).

Vắc-xin được dùng để uống không được trộn lẫn với bất kỳ vắc-xin hoặc dung dịch nào khác.

Vắc-xin cần được kiểm tra bằng mắt thường để phát hiện xem có bất kỳ phần tử lạ và/hoặc bất thường nào hay không. Loại bỏ vắc-xin nếu thấy có bất thường.

Nên loại bỏ vắc-xin không dùng đến hoặc chất thải theo yêu cầu của từng nơi.

Cảnh báo

Để đảm bảo thực hành tốt lâm sàng trước khi chủng ngừa, cần kiểm tra tiền sử y khoa (đặc biệt tiêm chủng vắc-xin trước đó và phản ứng ngoại ý xảy ra) và thăm khám lâm sàng.

Cũng như những vắc-xin khác, nên hoãn sử dụng Rotarix cho trẻ đang có bệnh lý nặng, cấp tính có sốt. Tuy nhiên không chống chỉ định cho trẻ đang có biểu hiện nhiễm khuẩn nhẹ như cảm lạnh.

Nên hoãn sử dụng Rotarix cho trẻ đang bị tiêu chảy hoặc nôn.

Chưa có dữ liệu về tính an toàn và tính hiệu quả của Rotarix ở những trẻ mắc bệnh đường tiêu hóa. Có thể cân nhắc sử dụng một cách thận trọng Rotarix ở những trẻ này nếu bác sĩ cho rằng việc không sử dụng vắc-xin có thể gây ra nguy cơ cao hơn.

Nguy cơ xảy ra lồng ruột đã được đánh giá trên một thử nghiệm lâm sàng về an toàn trên diện rộng (bao gồm 63.225 trẻ) ở Mỹ La Tinh và Phần Lan. Thử nghiệm này cho thấy nguy cơ bệnh lồng ruột không tăng lên khi dùng Rotarix so với nhóm dùng placebo.

Tuy nhiên, nghiên cứu an toàn hậu mãi cho thấy gia tăng bệnh lồng ruột sau khi uống vắc-xin, phần lớn là trong 7 ngày sau khi dùng liều đầu tiên và đối với liều thứ hai thì nguy cơ ít hơn. Tổng số trường hợp bị lồng ruột vẫn rất hiếm. Hiện chưa thiết lập rõ liệu Rotarix có ảnh hưởng đến toàn bộ tỷ lệ xuất hiện lồng ruột hay không.

Để thận trọng, các cán bộ y tế nên lưu ý theo dõi các dấu hiệu của bệnh lồng ruột (đau bụng dữ dội, nôn kéo dài, phân có máu, chướng bụng và/hoặc sốt cao). Khi gặp các triệu chứng trên, cha mẹ hay người bảo mẫu cần nhanh chóng báo ngay cho các cán bộ y tế.

Việc chỉ định dùng Rotarix cho trẻ bị suy giảm miễn dịch, bao gồm cả những trẻ đang trong quá trình điều trị bằng liệu pháp ức chế miễn dịch, cần phải được thận trọng cân nhắc nguy cơ và lợi ích của việc sử dụng.

Thải trừ vi rút vắc-xin qua phân sau khi uống ngừa và trung bình kéo dài khoảng 10 ngày với ngưỡng cao nhất của sự bài tiết vào ngày thứ 7.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, đã quan sát những trường hợp lây truyền vi rút vắc-xin thải trừ từ các đối tượng uống ngừa sang cho các đối tượng tiếp xúc có huyết thanh âm tính nhưng không thấy có bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào. Rotarix nên được chỉ định thận trọng cho những trẻ tiếp xúc gần với người suy giảm miễn dịch, như người có khối u ác tính hoặc các trường hợp suy giảm miễn dịch khác hoặc đang điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Nên vệ sinh cẩn thận khi tiếp xúc với trẻ vừa được uống vắc-xin (bao gồm cả việc rửa tay) khi thay tã lót cho trẻ.

Cũng như các vắc-xin khác, đáp ứng miễn dịch bảo vệ có thể không đạt được ở tất cả các trẻ dùng vắc-xin.

Hiện chưa rõ mức độ bảo vệ của Rotarix chống lại các chủng rotavirus không lưu hành trong các thử nghiệm lâm sàng.

Rotarix không bảo vệ trẻ chống lại bệnh viêm dạ dày ruột do các tác nhân khác không phải Rotavirus.

Không được tiêm Rotarix trong bất kỳ trường hợp nào.

Ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc

Không thích hợp do Rotarix không được sử dụng cho người lớn.

Quá liều

Một số trường hợp Quá liều đã được báo cáo. Nhìn chung, hồ sơ biến cố bất lợi được báo cáo ở những trường hợp này tương tự như các biến cố bất lợi được ghi nhận sau khi sử dụng liều Rotarix như khuyến cáo.

Chống chỉ định

Quá mẫn với vắc-xin hoặc bất cứ thành phần tá dược nào.

Quá mẫn sau khi sử dụng vắc-xin rotavirus trước đó.

Tiền sử bị lồng ruột.

Bệnh nhân có dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa vì có thể là nguyên nhân dẫn đến lồng ruột.

Bệnh nhân bị rối loạn miễn dịch kết hợp nghiêm trọng (bệnh SCID).

Nên hoãn sử dụng Rotarix đối với bệnh nhân đang bị sốt cao cấp tính. Không chống chỉ định sử dụng cho bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn nhẹ.

Hoãn sử dụng Rotarix đối với bệnh nhân bị nôn hoặc tiêu chảy.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Rotarix không sử dụng cho người lớn. Do vậy, chưa có dữ liệu về việc sử dụng vắc-xin trên người ở thời kỳ mang thai hoặc cho con bú và chưa có nghiên cứu nào được tiến hành về khả năng sinh sản trên động vật.

Tương tác

Rotarix có thể được sử dụng cùng lúc với bất kỳ vắc-xin đơn giá hoặc phối hợp nào [như vắc-xin sáu thành phần (DTPa-HBV-IPV/Hib)]: vắc-xin bạch hầu - uốn ván - ho gà toàn tế bào (DTPw), bạch hầu - uốn ván - ho gà vô bào (DTPa), vắc-xin Haemophilus influenzae typ b (Hib), vắc-xin bại liệt bất hoạt (IPV), vắc-xin viêm gan B (HBV), vắc-xin cộng hợp ngừa phế cầu khuẩn và vắc-xin cộng hợp não mô cầu huyết thanh nhóm C. Những nghiên cứu lâm sàng cho thấy rằng đáp ứng miễn dịch và tính an toàn của những vắc-xin dùng cùng lúc với Rotarix không hề bị ảnh hưởng.

Sử dụng cùng lúc Rotarix và vắc-xin bại liệt uống (OPV) không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên bại liệt. Mặc dù sử dụng đồng thời với OPV có thể làm giảm nhẹ đáp ứng miễn dịch đối với vắc-xin rotavirus, nhưng hiệu quả bảo vệ lâm sàng đối với viêm dạ dày ruột nặng do Rotavirus vẫn được duy trì.

Tương kỵ

Không nên trộn lẫn vắc-xin này với các sản phẩm thuốc khác.

Tác dụng ngoại ý

Các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng

Phân loại về tần suất được quy định như sau: Rất phổ biến ≥1/10, Phổ biến ≥1/100 và <1/10, Không phổ biến ≥1/1000 và <1/100, Hiếm gặp ≥1/10.000 và <1/1000, Rất hiếm gặp <1/10.000.

Kết quả về tính an toàn được trình bày dưới đây dựa trên các dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành với dạng vắc-xin đông khô hoặc dạng hỗn dịch của Rotarix.

Trong tổng số 4 thử nghiệm lâm sàng với gần 3.800 liều Rotarix dạng hỗn dịch được sử dụng cho gần 1900 trẻ. Các thử nghiệm này cho kết quả về tính an toàn của vắc-xin dạng hỗn dịch tương đương với vắc-xin dạng đông khô.

Trong tổng cộng 23 thử nghiệm lâm sàng, khoảng 106.000 liều Rotarix (dạng đông khô hoặc dạng hỗn dịch) được sử dụng cho gần 51.000 trẻ.

Trong 3 thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng placebo, Rotarix được sử dụng một mình (vắc-xin thường quy dùng cho trẻ em được chỉ định xen kẽ), tỷ lệ xuất hiện và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng liên quan (thu thập 8 ngày sau khi uống ngừa), tiêu chảy, nôn, chán ăn, sốt, kích thích và ho/chảy mũi không có sự khác biệt có ý nghĩa trong nhóm sử dụng Rotarix so với nhóm sử dụng placebo. Không tăng tỷ lệ xuất hiện và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng này sau liều thứ hai.

Trong phân tích tổng hợp từ 17 thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng – placebo bao gồm các thử nghiệm, Rotarix được sử dụng cùng với các vắc-xin thường quy dùng cho trẻ em, các phản ứng không mong muốn dưới đây (thu thập 31 ngày sau khi uống ngừa) có khả năng liên quan đến sử dụng vắc-xin.

Rối loạn tiêu hóa

Phổ biến: tiêu chảy

Không phổ biến: đầy hơi, đau bụng

Rối loạn da và mô dưới da

Không phổ biến: viêm da

Rối loạn toàn thân và tại chỗ

Phổ biến: kích ứng.

Nguy cơ của lồng ruột được đánh giá trong một thử nghiệm lớn về tính an toàn tiến hành tại Mỹ La Tinh và Phần Lan với 63.225 đối tượng tham gia. Kết quả cho thấy không có bằng chứng về sự gia tăng nguy cơ của lồng ruột trong nhóm Rotarix khi so sánh với nhóm placebo, chi tiết được trình bày.

Tính an toàn trên trẻ đẻ non

Trong một thử nghiệm lâm sàng, 1009 trẻ được sử dụng Rotarix dạng đông khô hoặc placebo (198 trẻ từ 27-30 tuần tuổi và 801 trẻ từ 31-36 tuần tuổi khi sinh). Liều đầu tiên được sử dụng từ 6 tuần sau khi sinh. Phản ứng không mong muốn nghiêm trọng được thấy ở 5,1% đối tượng sử dụng Rotarix so sánh với 6,8% sử dụng placebo. Các phản ứng không mong muốn khác ở các đối tượng sử dụng Rotarix và placebo cũng có tỷ lệ tương tự. Không trường hợp lồng ruột nào được báo cáo.

Điều tra hậu mãi

Rối loạn tiêu hóa.

Hiếm gặp: phân có máu, viêm dạ dày-ruột do vi rút trong vắc-xin bài tiết qua phân ở những trẻ bị bệnh thiếu hụt miễn dịch kết hợp trầm trọng (SCID).

Rất hiếm: lồng ruột.

Bảo quản

Bảo quản trong tủ lạnh (2-8 độ C). Không để đông đá.

Bảo quản nguyên trong hộp để tránh ánh sáng.

Trình bày và đóng gói

Hỗn dịch uống: hộp 1 ống 1,5mL [1,5mL hỗn dịch uống trong một ống uống (loại 1 I, Ph. Eur.) với pít-tông có nút chặn (cao su butyl)].

Bài viết cùng chuyên mục

Rocamux: thuốc làm loãng đờm trong điều trị các bệnh đường hô hấp

Rocamux điều trị các rối loạn về tiết dịch trong các bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, viêm mũi - họng, hen phế quản, tắc nghẽn đường hô hấp cấp và mạn tính. Điều trị hỗ trợ trong các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp.

Restasis: thuốc làm tăng sản sinh nước mắt ở bệnh nhân khô mắt

Restasis được chỉ định làm tăng sản sinh nước mắt ở những bệnh nhân do viêm mắt liên quan với viêm khô kết-giác mạc. Tăng sản sinh nước mắt không được nhận thấy ở các bệnh nhân đang dùng thuốc nhỏ mắt kháng viêm hay sử dụng nút điểm lệ.

Relestat: thuốc điều trị ngứa mắt liên quan với viêm kết mạc dị ứng

Relestat (Epinastine) là một chất đối kháng thụ thể H1 trực tiếp, có hoạt tính tại chỗ và là chất ức chế phóng thích histamin từ dưỡng bào. Epinastine có hoạt tính chọn lọc đối với thụ thể histamin H1 và có ái lực đối với thụ thể histamin H2.

Regulon: thuốc uống ngừa thai

Bắt đầu dùng thuốc Regulon vào ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt, dùng mỗi ngày 1 viên liên tục trong 21 ngày, tốt nhất là vào cùng giờ mỗi ngày. Tiếp theo là 7 ngày không dùng thuốc, trong thời gian này sẽ hành kinh.

Refresh Liquigel/Refresh Tears: thuốc điều trị nóng rát kích ứng và khô mắt

Refresh Liquigel/Refresh Tears làm dịu nhất thời cảm giác nóng rát, kích ứng và khó chịu do khô mắt hoặc do tiếp xúc với gió hay ánh nắng. Thuốc còn được dùng như một chất bảo vệ chống lại các kích thích khác.

Rosiglitazon: thuốc chống đái tháo đường typ 2

Rosiglitazon là một thuốc điều trị bệnh đái tháo đường typ 2 thuộc nhóm thiazolidindion, có tác dụng cải thiện sự nhạy cảm của insulin với tế bào đích, do đó cải thiện sự kiểm soát glucose huyết

Rocuronium bromid: thuốc giãn cơ, Esmeron, Rocuronium Kabi, Rocuronium hameln

Rocuronium không tác động đến ý thức, ngưỡng đau và não nên được sử dụng để giãn cơ trong phẫu thuật sau khi người bệnh đã mê và để đặt nội khí quản do tác dụng nhanh

Rituximab: thuốc chống ung thư, Mabthera

Rituximab phá hủy các lympho B và do đó được sử dụng để điều trị những bệnh có quá nhiều lympho B hoặc lympho B hoạt động quá mạnh hoặc bị rối loạn hoạt động

Ritonavir: thuốc kháng virus, Norvir

Sau khi uống, ritonavir được hấp thu ở ống tiêu hóa và nồng độ đỉnh huyết tương đạt được sau 2 đến 4 giờ, hấp thu phụ thuộc vào liều và tăng nếu uống thuốc cùng với thức ăn

Ribavirin: thuốc kháng virus, Barivir, Bavican Cap, Beejelovir, Copegus

Cơ chế tác dụng của ribavirin còn chưa biết đầy đủ, in vitro, ribavirin có tác dụng trên nhiều loại virus, tuy nhiên không liên quan tới tác dụng chống virus nhiễm ở người

Repaglinid: thuốc chống đái tháo đường, Dopect, Eurepa, Pranstad, Relinide, Ripar

Repaglinid làm giảm nồng độ đường huyết cả lúc đói và sau bữa ăn trên động vật thí nghiệm, người khỏe mạnh và trên bệnh nhân đái tháo đường. Đồng thời repaglinid làm giảm nồng độ đường và hemoglobin A1c

Ramipril: thuốc ức chế men chuyển, Deltapril, Praril, Provace, Ramidil, Ramigold

Tác dụng điều trị suy tim của ramipril nhờ giảm hậu gánh do làm giảm sức cản mạch ngoại vi, giảm tiền gánh do làm giảm áp lực mao mạch phổi và sức cản mạch phổi, cải thiện cung lượng tim

Rabeprazol: thuốc ức chế bơm proton, Angati, Anrbe, Apbezo, Atproton

Sử dụng các chất ức chế bơm proton có thể làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn dạ dày ruột với Salmonella, Campylobacter và Clostridium difficile.

Ribastad

Phối hợp interferon alpha-2b/peginterferon alpha-2b điều trị (1) nhiễm virus viêm gan C mạn tính ở người có bệnh gan còn bù (chưa suy) chưa điều trị với interferon hoặc tái phát sau điều trị interferon alpha-2b, (2) viêm gan C đồng nhiễm HIV.

Revolade

Dùng liều thấp nhất có hiệu quả duy trì số lượng tiểu cầu theo chỉ định. Khởi đầu 50 mg 1 lần một ngày, đánh giá chức năng gan.

Remsima: thuốc ức chế miễn dịch chống thấp khớp

Không chỉ định cho bệnh Crohn với lỗ rò mủ cấp tính cho đến khi nguồn lây nhiễm nguy cơ, đặc biệt áp xe, đã được loại trừ

Ribomustin: thuốc điều trị bệnh bạch cầu lympho mạn

U lympho không Hodgkin thể diễn tiến chậm ở bệnh nhân bệnh tiến triển sau điều trị với rituximab hoặc hóa trị phối hợp rituximab

Renapril

Chống chỉ định mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc/thuốc cùng nhóm. Phù mạch (phù lưỡi, niêm mạc khoang miệng &/hoặc họng) sau khi dùng thuốc khác.

Remirta

Bệnh nhân cao tuổi hoặc phát triển các triệu chứng bồn chồn/kích động tâm thần vận động: Việc tăng liều cần theo dõi sát để tìm ra đáp ứng thỏa đáng và an toàn.

Rocuronium Kabi

Tăng tác dụng với thuốc mê nhóm halogen hóa; liều cao thiopental, methohexital, ketamin, fentanyl, gammahydroxybutyrat, etomidat và propofol; thuốc giãn cơ không khử cực khác.

Risedronate Stada

Thuốc được nuốt nguyên viên và không được ngậm hay nhai. Để thuốc vào được dạ dày, bệnh nhân nên uống thuốc với nhiều nước (khoảng 120 ml) ở tư thế đứng.

Rishon

Tăng cholesterol máu gia đình kiểu đồng hợp tử, là một liệu pháp hỗ trợ cho chế độ ăn kiêng và các biện pháp điều trị giảm lipid khác (ví dụ: ly trích LDL máu) hoặc khi các liệu pháp này không thích hợp.

Rusartin

Tăng huyết áp: 80 mg, 1 lần/ngày; tăng tới 160 mg hoặc thêm thuốc lợi tiểu nếu huyết áp không được khống chế tốt; có thể phối hợp thuốc chống tăng huyết áp khác.

Reminyl

Phản ứng phụ. Giảm thèm ăn, biếng ăn, trầm cảm, choáng váng, đau đầu, run, ngất, hôn mê, buồn ngủ, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, đau vùng trên bụng, khó tiêu, khó chịu ở bụng, tăng tiết mồ hôi, co thắt cơ, mệt mỏi.

Remicade

Người lớn hay trẻ em bệnh Crohn, người lớn bệnh Crohn gây ra lỗ rò: 5 mg/kg, tiếp nối 5 mg/kg vào tuần thứ 2 và thứ 6 sau liều đầu tiên, sau đó lặp lại điều trị mỗi 8 tuần.

Recormon

Thành phần amino acid và carbohydrat của Epoetin beta giống như erythropoietin được phân lập từ nước tiểu của bệnh nhân thiếu máu

Mục lục các thuốc theo vần R

R - cin - xem Rifampicin, R - Hu EPO - xem Erythropoietin, Rabavert - xem Vaccin dại, Rabies immunoglobulin and Pasteur antirabies serum - xem Globulin miễn dịch kháng dại và huyết thanh kháng dại Pasteur.

Rantudil forte (Rantudil retard)

Viên nang Rantudil forte, Rantudil retard được dùng điều trị các tổn thương viêm và đau, đặc biệt tổn thương có liên quan với hệ cơ xương.

Recol

Recol là loại thuốc làm giảm cholesterol từ chủng Aspergillus terreus. Sau khi uống, lovastatin một lactone bất hoạt - được thủy phân thành dạng hydroxyacid tương ứng.

Retrovir

Zidovudine được phosphoryl hóa trên cả tế bào bị nhiễm hay không bị nhiễm thành dẫn xuất monophosphate (MP) do men thymidine kinase của tế bào.

Renova

Renova nên được dùng trong một chương trình chăm sóc da toàn diện: Chăm sóc da nói chung, tránh nắng, mặc quần áo tránh nắng, sử dụng kem chống nắng và các sản phẩm làm ẩm da.

Rhinathiol Promethazine

Các thuốc kháng histamine có đặc tính chung là đối kháng, do đối kháng tương tranh ít nhiều mang tính thuận nghịch, với tác dụng của histamine, chủ yếu trên da, mạch máu, phế quản và ruột.

Rigevidon

Viên nén Rigevidon 21 + 7 Fe là thuốc uống ngừa thai bằng cách ức chế sự rụng trứng, qua đó tránh việc có thai ngoài ý muốn.

Rhinathiol

Phối hợp thuốc tan đàm với thuốc ho hoặc các thuốc làm khô đàm (tác dụng atropinic) là không hợp lý.

Rocaltrol

Calcitriol, một trong những chất chuyển hóa có hoạt tính của vitamine D3, bình thường được tạo thành ở thận từ một tiền chất của nó là 25-hydroxycholécalciférol (25-HCC).

Risperdal

Risperdal, có hoạt chất là risperidone, là thuốc chống loạn thần mới thuộc nhóm dẫn xuất benzisoxazole.

Risordan (Risordan LP)

Isosorbide dinitrate là một nitrate hữu cơ bị biến dưỡng nhanh chóng và hoàn toàn bởi các glutathion-S-transferase. Thời gian bán hủy của liều uống duy nhất một viên là 40 phút ở người.

Rocephine

Ceftriaxone rất bền vững với beta lactamase, kể cả pénicillinase và céphalosporinase. Ceftriaxone có tác dụng trên hầu hết các vi khuẩn Gram âm và Gram dương.

Rocgel

Điều trị triệu chứng những cơn đau do bệnh thực quản, dạ dày, tá tràng. Uống một gói khi có cơn đau, không uống quá 6 gói một ngày. Phần thuốc trong gói được uống trực tiếp, nguyên chất không phải pha loãng.

Rodogyl

Rodogyl là thuốc phối hợp spiramycine, kháng sinh họ macrolide, và métronidazole, kháng sinh họ 5 nitroimidazole, đặc trị các bệnh nhiễm trùng răng miệng.

Rosampline

Nhóm penicilline đi qua sữa mẹ và có thể gây tai biến dị ứng ở trẻ. Do đó không nên cho con bú trong thời gian điều trị.

Rohto Kodomo Soft

Thuốc nhỏ mắt Rohto Kodomo Soft ngăn ngừa viêm mắt, bảo vệ mắt trẻ khỏi những bệnh do bơi lội, làm giảm triệu chứng đỏ mắt, ngứa và các triệu chứng khác.

Rohto Antibacterial

Thuốc nhỏ mắt Rohto Antibacterial có tính ổn định cao, đảm bảo tác dụng trong suốt quá trình sử dụng. Thuốc làm giảm cảm giác đau đớn khó chịu và trẻ em dùng cũng được.

Rovacor

Rovacor có hoạt chất chính là lovastatin, có tên hóa học là acid butanoic 2-methyl-1, 2, 3, 7, 8, 8a-hexahydro-3,7-dimethyl-8-[2-(tetrahydro-4-hydroxy-6-oxo-2H-pyran-2-yl)-ethyl]-1naphthalenyl ester.

Rovamycine

Spiramycine không bài tiết dưới dạng có hoạt tính qua thận, do đó không cần điều chỉnh liều trong trường hợp suy thận. Hấp thu nhanh (thời gian bán hấp thu: 20 phút), nhưng không hoàn toàn, sự hấp thu không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.

Rulid

Khi dùng kháng sinh macrolide kết hợp với các alcaloid gây co mạch của nấm cựa gà, co mạch ở các đầu chi có thể dẫn đến hoại tử đã được ghi nhận.

Retinoid

Tác dụng tại chỗ của tretinoin không liên quan đến tác dụng sinh lý của vitamin A. Khi bôi trên da, tretinoin có nhiều tác dụng khác nhau lên tế bào.

Roxithromycin

Roxithromycin là kháng sinh macrolid, có phổ tác dụng rộng với các vi khuẩn Gram dương và một vài vi khuẩn Gram âm. Trên lâm sàng roxithromycin thường có tác dụng đối với Streptococcus pyogenes.

Risperidon

Risperidon là một thuốc chống loạn thần loại benzisoxazol, có tác dụng đối kháng chọn lọc với thụ thể serotonin typ 2 (5 HT2) và thụ thể dopamin typ 2 (D2). Risperidon cũng gắn với thụ thể adrenergic alpha1.

Ringer lactate

Dung dịch Ringer lactat, có thành phần điện giải, và pH tương tự như của các dịch ngoại bào của cơ thể, Ion lactat được nhanh chóng chuyển hóa thành ion bicarbonat.

Rifampicin

Rifampicin có hoạt tính với các vi khuẩn thuộc chủng Mycobacterium, đặc biệt là vi khuẩn lao, phong và Mycobacterium khác như M. bovis, M. avium.

Riboflavin (Vitamin B2)

Riboflavin không có tác dụng rõ ràng khi uống hoặc tiêm. Riboflavin được biến đổi thành 2 co - enzym là flavin mononucleotid (FMN) và flavin adenin dinucleotid (FAD).

Retinol (Vitamin A)

Vitamin A là vitamin tan trong dầu rất cần cho thị giác, cho sự tăng trưởng và cho sự phát triển và duy trì của biểu mô. Nhu cầu hằng ngày của trẻ em là 400 microgam (1330 đvqt), và của người lớn là 600 microgam (2000 đvqt).

Reserpin

Reserpin làm cạn kiệt dự trữ catecholamin và serotonin ở đầu tận cùng dây thần kinh giao cảm ngoại biên và làm cạn kiệt catecholamin và serotonin ở não, tim và nhiều cơ quan khác.

Ranitidin

Ranitidin ức chế cạnh tranh với histamin ở thụ thể H2 của tế bào vách, làm giảm lượng acid dịch vị tiết ra cả ngày và đêm, cả trong tình trạng bị kích thích bởi thức ăn, insulin, amino acid, histamin, hoặc pentagastrin.