Implanon NXT: thuốc tránh thai

2020-12-05 08:27 AM

Implanon NXT là que cấy không bị phân hủy sinh học, cản quang và chứa etonogestrel được dùng để cấy dưới da, được nạp sẵn trong dụng cụ vô khuẩn, dùng một lần.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhà sản xuất

Organon.

Thành phần

Mỗi que cấy: Etonogestrel 68mg.

Mô tả

Implanon NXT là một que cấy chỉ chứa progestagen, không bị phân hủy sinh học, cản quang, và được đặt trong một dụng cụ vô khuẩn, dùng một lần.

Mỗi que cấy có tính cản quang chứa 68 mg etonogestrel; tốc độ phóng thích khoảng 60-70 mcg/ngày trong 5-6 tuần và giảm còn 35-45 mcg/ngày vào cuối năm đầu tiên, và sau đó khoảng 30-40 mcg/ngày vào cuối năm thứ hai và khoảng 25-30 mcg/ngày vào cuối năm thứ ba. Dụng cụ được thiết kế để cấy bằng một tay và giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấy que cấy dưới da một cách chính xác.

Dược lực học

Nhóm dược trị liệu: Progestagens

Phân loại ATC: G03AC08

Implanon NXT là que cấy không bị phân hủy sinh học, cản quang và chứa etonogestrel được dùng để cấy dưới da, được nạp sẵn trong dụng cụ vô khuẩn, dùng một lần. Etonogestrel là chất chuyển hóa sinh học có hoạt tính của desogestrel, một progestagen được dùng rộng rãi trong thuốc tránh thai dạng uống. Về cấu trúc, thuốc có nguồn gốc từ 19-nortestosteron và có ái lực gắn kết mạnh với những thụ thể progesteron tại các cơ quan đích. Hiệu quả tránh thai của etonogestrel chủ yếu qua tác dụng ức chế rụng trứng. Không thấy rụng trứng trong hai năm đầu sử dụng que cấy và rất hiếm xảy ra trong năm thứ ba. Ngoài tác dụng ức chế rụng trứng, etonogestrel cũng làm thay đổi chất nhầy cổ tử cung gây cản trở sự di chuyển của tinh trùng. Các thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành ở phụ nữ từ 18 đến 40 tuổi. Mặc dù không tiến hành so sánh trực tiếp nhưng ít nhất hiệu quả tránh thai cũng tương tự như các thuốc tránh thai phối hợp đường uống. Trong các thử nghiệm lâm sàng không ghi nhận có thai trong 35.057 chu kỳ cấy thuốc; chỉ số Pearl quan sát thấy là 0,00 (giới hạn tin cậy 95%: 0,00-0,14). Tuy nhiên cần biết rằng trên thực hành lâm sàng không phương pháp nào được cho là hiệu quả 100%. Hiệu quả tránh thai cao còn do lý do khác bởi vì tác dụng tránh thai của Implanon NXT không phụ thuộc vào việc tuân thủ dùng thuốc của người phụ nữ. Tác dụng tránh thai của etonogestrel có thể mất đi nhanh chóng sau khi rút que cấy, thể hiện qua việc kinh nguyệt trở về bình thường. Mặc dù etonogestrel ức chế sự rụng trứng, hoạt động của buồng trứng không bị ức chế hoàn toàn. Nồng độ trung bình của estradiol vẫn cao hơn nồng độ estradiol ở giai đoạn nang noãn sớm. Trong một nghiên cứu hai năm so sánh mật độ chất khoáng trong xương ở 44 người sử dụng với nhóm chứng gồm 29 người sử dụng vòng tránh thai (IUD), không thấy tác dụng bất lợi trên khối xương. Không thấy ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng trên chuyển hóa lipid. Sử dụng thuốc tránh thai chứa progestagen có thể ảnh hưởng đến sự đề kháng insulin và dung nạp glucose. Các thử nghiệm lâm sàng còn cho thấy những người dùng Implanon NXT ít bị đau bụng kinh hơn.

Các đặc điểm về đặt que cấy và rút que cấy

Trong một thử nghiệm lâm sàng, que cấy Implanon NXT đã được đặt ở 301 phụ nữ. Thời gian cấy trung bình (từ lúc tháo nắp bảo vệ của dụng cụ cấy cho đến khi rút kim ra khỏi cánh tay) là 27,9 giây (độ lệch chuẩn (SD) = 29,3, n=291). Sau khi cấy, có thể sờ thấy 300 trong số 301 que cấy Implanon NXT (99,7%). Một que cấy duy nhất không sờ thấy đã không được đặt vào theo đúng hướng dẫn. Đối với 293 trong số 301 đối tượng, các dữ liệu về khả năng sờ thấy đã được thu thập trước khi rút que cấy. Que cấy có thể sờ thấy được đối với tất cả 293 đối tượng với dữ liệu về khả năng sờ thấy. Đối với 4 đối tượng, khả năng sờ thấy không được đánh giá và 4 đối tượng khác đã bị mất theo dõi trước khi rút que cấy.

Trong hai thử nghiệm lâm sàng với que cấy Implanon NXT, tổng cộng có 116 đối tượng đã được đánh giá bằng X-quang 2 chiều vào lúc (sau khi) đặt và/hoặc (trước khi) rút que cấy. Đối với 101 trong số 103 đối tượng (98,1%) đã được thực hiện đánh giá về X-quang vào lúc đặt và trước khi rút ra, que cấy Implanon NXT đã được nhìn thấy rõ ràng; đối với 2 đối tượng, que cấy không thể nhìn thấy rõ sau khi đặt nhưng có thể nhìn thấy rõ trước khi rút. Tất cả các que cấy của 13 đối tượng được đánh giá bằng X-quang chỉ vào lúc đặt (n=12) hoặc chỉ trước khi rút (n=1) đều có thể nhìn thấy rõ ràng.

Dược động học

Hấp thu

Sau khi cấy, etonogestrel nhanh chóng được hấp thu vào hệ tuần hoàn. Nồng độ ức chế sự rụng trứng đạt được trong vòng 1 ngày. Nồng độ tối đa trong huyết thanh (từ 472 đến 1270 pg/mL) đạt được từ 1 đến 13 ngày. Tốc độ phóng thích thuốc của que cấy giảm theo thời gian. Kết quả là nồng độ thuốc trong huyết thanh giảm nhanh trong vài tháng đầu. Đến cuối năm đầu sử dụng, nồng độ trung bình đo được khoảng 200 pg/mL (thay đổi từ 150-261 pg/mL), rồi giảm chậm còn 156 pg/mL (từ 111-202 pg/mL) vào cuối năm thứ ba. Sự thay đổi nồng độ thuốc trong huyết thanh có thể một phần do sự khác nhau về thể trọng.

Phân phối

Khoảng 95,5-99% etonogestrel gắn với protein trong huyết thanh, chủ yếu là albumin và một phần ít hơn là globulin gắn kết với nội tiết sinh dục. Thể tích phân phối trung ương và toàn bộ theo thứ tự là 27 L và 220 L, và hầu như không thay đổi trong thời gian dùng Implanon NXT.

Chuyển hóa

Etonogestrel bị hydroxyl hóa và bị khử. Các chất chuyển hóa được liên hợp thành dạng sulfat và glucuronid. Những nghiên cứu trên động vật cho thấy tuần hoàn gan-ruột có lẽ không góp phần vào hoạt tính progestagen của etonogestrel.

Thải trừ

Sau khi tiêm tĩnh mạch etonogestrel, thời gian bán thải trung bình khoảng 25 giờ và độ thanh thải huyết thanh khoảng 7,5 L/giờ. Cả độ thanh thải và thời gian bán thải luôn hằng định trong thời gian dùng thuốc. Etonogestrel và các chất chuyển hóa của nó, ở dạng các steroid tự do hoặc dạng liên hợp, được bài tiết qua nước tiểu và phân (tỷ lệ 1,5:1). Ở phụ nữ đang cho con bú, sau khi cấy que thuốc, etonogestrel được bài tiết trong sữa mẹ với tỷ lệ sữa/huyết thanh là 0,44-0,50 trong 4 tháng đầu tiên. Ở phụ nữ đang cho con bú, liều etonogestrel trung bình truyền qua trẻ nhỏ khoảng 0,2% của liều etonogestrel tuyệt đối hàng ngày ở người mẹ (2,2% khi các giá trị được tiêu chuẩn hóa theo kg thể trọng). Nồng độ hoạt chất giảm dần và giảm có ý nghĩa thống kê theo thời gian.

Chỉ định và công dụng

Tránh thai.

Đã thiết lập tính an toàn và hiệu quả ở phụ nữ từ 18 đến 40 tuổi.

Liều lượng và cách dùng

Phải loại trừ khả năng có thai trước khi cấy Implanon NXT.

Nhân viên y tế cần tham gia một khóa huấn luyện về cách sử dụng dụng cụ cấy Implanon NXT và các kỹ thuật cấy và rút que cấy Implanon NXT và nếu cần, nên yêu cầu sự giám sát trước khi cấy hoặc rút que cấy.

Trước khi cấy que cấy, đọc kỹ và tuân thủ những hướng dẫn về việc cấy và rút que cấy trong mục “Cách cấy Implanon NXT” và mục “Cách rút Implanon NXT”.

Xin vui lòng liên hệ nhà cung cấp tại địa phương nếu có bất kỳ câu hỏi nào.

Nếu không chắc chắn về các bước cần thiết để cấy và/hoặc rút Implanon NXT an toàn, không thử thủ thuật này.

Cách sử dụng Implanon NXT

Implanon NXT là thuốc tránh thai chứa nội tiết có tác dụng kéo dài. Một que cấy được đặt dưới da và có thể để tại chỗ trong ba năm. Không rút que cấy muộn hơn ba năm sau ngày cấy. Nên thông báo cho người sử dụng biết rằng họ có thể yêu cầu rút que cấy bất kỳ thời gian nào. Nhân viên y tế có thể cân nhắc thay que cấy mới sớm hơn ở những người phụ nữ nặng cân. Cấy ngay một que cấy mới ngay sau khi rút que cấy cũ sẽ đảm bảo sự tránh thai liên tục. Nếu không muốn tiếp tục sử dụng Implanon NXT nhưng muốn tiếp tục tránh thai thì nên khuyến cáo sử dụng một phương pháp tránh thai khác.

Cơ sở để sử dụng hiệu quả và sau đó rút thành công que cấy Implanon NXT là tiến hành cấy dưới da chính xác và cẩn thận theo đúng hướng dẫn. Nếu que cấy không được cấy theo đúng hướng dẫn, và vào đúng ngày qui định, điều này có thể gây có thai ngoài ý muốn. Khi que cấy được cấy sâu vào dưới lớp mô dưới da (cấy sâu) có thể không sờ thấy que cấy và gây khó khăn cho việc định vị và/hoặc rút que cấy.

Nên cấy Implanon NXT dưới da ngay dưới lớp da ở mặt trong của cánh tay không thuận trên mỏm lồi cầu trong xương cánh tay. Vị trí cấy này nằm trên cơ tam đầu khoảng 8-10cm (3-4 inch) từ mỏm lồi cầu trong xương cánh tay và 3-5cm (1,25-2 inch) phía sau rãnh giữa cơ nhị đầu và cơ tam đầu. Vị trí này nhằm tránh các mạch máu lớn và các dây thần kinh nằm trong và xung quanh rãnh này.

Ngay sau khi cấy phải kiểm tra sự hiện diện của que cấy bằng cách sờ nhẹ. Trong trường hợp không sờ thấy que cấy hoặc nghi ngờ không có sự hiện diện của que cấy.

Trong hộp Implanon NXT có chứa một ''Phiếu dành cho người Sử Dụng'' có ghi số lô của que cấy để phát cho người phụ nữ. Nhân viên y tế được yêu cầu ghi ngày cấy, cánh tay cấy và ngày dự định rút que cấy trên ''Phiếu dành cho người Sử Dụng''. Trong hộp cũng có chứa nhãn dính ghi số lô để nhân viên y tế lưu trong hồ sơ.

Khi nào cấy Implanon NXT

Phải loại trừ khả năng có thai trước khi đặt que cấy.

Thời gian cấy phụ thuộc vào phương pháp tránh thai gần đây của người phụ nữ, như sau:

Không sử dụng phương pháp tránh thai nội tiết trong tháng trước

Nên cấy que cấy trong khoảng thời gian từ ngày 1 (ngày đầu tiên thấy kinh) đến ngày 5 của chu kỳ kinh nguyệt, ngay cả khi âm đạo vẫn còn chảy máu.

Nếu cấy theo khuyến cáo, không cần phương pháp tránh thai hỗ trợ. Khi cấy ngoài thời gian khuyến cáo, nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Đổi từ phương pháp tránh thai sang Implanon NXT

Đổi từ một phương pháp tránh thai nội tiết dạng phối hợp (thuốc tránh thai phối hợp dạng uống (combined oral contraceptive-COC), vòng đặt âm đạo hoặc miếng dán trên da)

Tốt nhất nên cấy que cấy vào ngày kế tiếp sau khi uống viên thuốc tránh thai chứa hoạt chất cuối cùng (viên cuối cùng chứa hoạt chất tránh thai) của vỉ thuốc tránh thai phối hợp, nhưng muộn nhất vào ngày kế ngay sau giai đoạn tạm nghỉ uống thuốc tránh thai hoặc ngay sau ngày uống viên giả dược cuối cùng của vỉ thuốc tránh thai phối hợp. Trong trường hợp đang sử dụng vòng đặt âm đạo hoặc miếng dán trên da, tốt nhất nên cấy que cấy vào ngày lấy chúng ra, nhưng không muộn hơn ngày cần thay vòng đặt âm đạo hoặc miếng dán kế tiếp. Nếu cấy theo khuyến cáo, không cần phương pháp tránh thai hỗ trợ. Khi cấy ngoài thời gian khuyến cáo, nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Đổi từ phương pháp tránh thai chỉ chứa progestagen (như thuốc viên chỉ chứa progestagen, thuốc tiêm, que cấy, hoặc dụng cụ đặt tử cung [intrauterine system - IUS])

Có rất nhiều phương pháp tránh thai chỉ chứa progestagen, việc cấy que cấy cần thực hiện như sau:

Thuốc tiêm tránh thai: Cấy que cấy vào ngày cần tiêm thuốc kế tiếp.

Thuốc viên chỉ chứa progestagen: Có thể đổi từ thuốc viên chỉ chứa progestagen sang Implanon NXT vào bất kỳ ngày nào trong tháng. Nên cấy que cấy trong vòng 24 giờ sau khi uống viên thuốc cuối cùng.

Que cấy/dụng cụ đặt tử cung (IUS): Cấy que cấy vào cùng ngày rút que cấy hoặc lấy IUS.

Nếu cấy theo khuyến cáo, không cần phương pháp tránh thai hỗ trợ. Khi cấy ngoài thời gian khuyến cáo, nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Sau sẩy thai hoặc hư thai

Ba tháng đầu: Nên cấy que cấy trong vòng 5 ngày sau khi sẩy thai hoặc hư thai trong ba tháng đầu.

Ba tháng giữa: Nên cấy que cấy vào khoảng từ ngày 21 đến 28 sau khi sẩy hoặc hư thai trong ba tháng giữa.

Nếu cấy theo khuyến cáo, không cần phương pháp tránh thai hỗ trợ. Khi cấy ngoài thời gian khuyến cáo, nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Sau khi sinh

Cho con bú: Nên cấy que cấy sau tuần thứ tư sau khi sinh. Nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Không cho con bú: Nên cấy que cấy vào khoảng từ ngày 21 đến 28 sau khi sinh. Nếu cấy theo khuyến cáo, không cần phương pháp tránh thai hỗ trợ. Khi đặt que cấy muộn hơn 28 ngày sau khi sinh, nên sử dụng phương pháp màng chắn đến 7 ngày sau khi cấy. Nếu đã giao hợp, phải loại trừ khả năng mang thai.

Cách cấy Implanon NXT

Cơ sở để sử dụng hiệu quả và sau đó rút thành công que cấy Implanon NXT là tiến hành cấy chính xác và cẩn thận que cấy vào cánh tay không thuận theo hướng dẫn. Cả nhân viên y tế và người phụ nữ cần cảm nhận que cấy nằm dưới da sau khi đặt que cấy.

Que cấy nên được đưa vào ngay bên dưới da, ngay dưới lớp da ở mặt trong của phần trên cánh tay không thuận.

Khi que cấy được cấy sâu hơn vào lớp mô dưới da (cấy sâu) có thể không sờ thấy que cấy và gây khó khăn trong việc định vị và/hoặc rút que cấy.

Nếu que cấy được cấy sâu có thể gây tổn thương dây thần kinh hoặc mạch máu. Cấy sâu hoặc cấy không đúng có thể gây dị cảm (do tổn thương dây thần kinh) và di chuyển que cấy (do đưa que cấy vào trong cơ hoặc cân cơ), và trong một số trường hợp hiếm, có thể đưa que cấy vào trong mạch máu.

Phải cấy Implanon NXT trong điều kiện vô khuẩn và chỉ nên thực hiện bởi nhân viên y tế thành thạo thao tác. Chỉ nên cấy que cấy với dụng cụ có que cấy được nạp sẵn.

Thủ thuật cấy

Để giúp đảm bảo que cấy được đưa vào ngay dưới da, chuyên gia y tế nên ở vị trí để thấy sự đưa ra phía trước của kim bằng cách quan sát thiết bị cấy từ phía bên, không phải từ phía trên cánh tay. Khi quan sát từ phía bên, có thể nhìn thấy rõ vị trí cấy và sự di chuyển của kim ngay dưới da.

Nhằm mục đích minh họa, các hình mô tả mặt trong cánh tay trái.

Nếu không sờ thấy que cấy sau khi cấy:

Nếu không thể sờ thấy que cấy hoặc nghi ngờ về sự hiện diện của nó, que cấy có thể đã không được cấy hoặc có thể đã được cấy sâu:

Kiểm tra thiết bị cấy. Kim cần được rút lại hoàn toàn và chỉ nên nhìn thấy được đầu màu tím của thanh bịt.

Sử dụng các phương pháp khác để xác định sự hiện diện của que cấy. Do bản chất chắn bức xạ của que cấy, các phương pháp thích hợp để định vị que cấy là chụp X-quang hai chiều và chụp X-quang cắt lớp điện toán (chụp CT). Siêu âm quét (USS) với đầu dò cao tần tuyến tính (10 MHz hoặc cao hơn) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) có thể được sử dụng. Trong trường hợp các phương pháp chụp hình ảnh này thất bại, nên xác định sự hiện diện của que cấy bằng cách đo nồng độ etonogestrel trong mẫu máu của người phụ nữ. Trong trường hợp này, nhà cung cấp sẽ cung cấp hướng dẫn thích hợp. Cho đến khi đã xác định sự hiện diện của que cấy, người phụ nữ phải sử dụng một phương pháp tránh thai không chứa hormone.

Cần định vị que cấy được đặt sâu và rút càng sớm càng tốt để tránh nguy cơ di chuyển xa.

Cách rút que cấy Implanon NXT

Việc rút que cấy chỉ nên được tiến hành trong điều kiện vô khuẩn bởi chuyên gia y tế quen thuộc với kỹ thuật rút que cấy. Nếu không quen thuộc với kỹ thuật rút que cấy, liên hệ với nhà cung cấp để biết thêm thông tin.

Trước khi bắt đầu quy trình rút que cấy, chuyên gia y tế cần đánh giá vị trí của que cấy. Xác định vị trí chính xác của que cấy ở cánh tay bằng cách sờ nắn.

Nếu không sờ thấy được que cấy, tham khảo ''Phiếu dành cho người sử dụng'' hoặc hồ sơ y tế để xác định cánh tay có chứa que cấy. Nếu không sờ thấy được que cấy, nó có thể nằm sâu hoặc đã di chuyển. Xem xét rằng que cấy có thể nằm gần các mạch máu và dây thần kinh. Việc rút que cấy không thể sờ thấy chỉ nên được thực hiện bởi chuyên gia y tế có kinh nghiệm trong việc rút que cấy đặt sâu và quen thuộc với việc định vị que cấy và giải phẫu của cánh tay. Liên hệ với nhà cung cấp tại địa phương để biết thêm thông tin.

Định vị và rút một que cấy không sờ thấy được

Đôi khi có các báo cáo về việc di chuyển que cấy; thông thường điều này liên quan đến sự di chuyển nhẹ so với vị trí ban đầu, nhưng có thể dẫn đến không sờ thấy được que cấy ở vị trí cấy. Có thể không sờ thấy que cấy khi que cấy đã được cấy sâu hoặc bị di lệch và do đó có thể cần phải có các thủ thuật chụp hình ảnh, như được mô tả dưới đây để định vị que cấy.

Cần phải luôn luôn định vị một que cấy không sờ thấy được trước khi cố gắng rút ra. Do bản chất cản quang của que cấy, các phương pháp thích hợp để định vị que cấy bao gồm chụp X-quang hai chiều và chụp X-quang cắt lớp điện toán (chụp CT). Siêu âm quét (USS) với đầu dò cao tần tuyến tính (10 MHz hoặc cao hơn) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) có thể được sử dụng. Một khi đã định vị que cấy ở cánh tay, việc rút que cấy chỉ nên được thực hiện bởi chuyên gia y tế có kinh nghiệm trong việc rút que cấy đặt sâu và quen thuộc với giải phẫu của cánh tay. Nên xem xét sử dụng hướng dẫn bằng siêu âm trong khi rút.

Nếu không thể tìm thấy que cấy trong cánh tay sau những nỗ lực định vị toàn diện, hãy xem xét áp dụng kỹ thuật chụp hình ảnh ngực vì các biến cố hiếm gặp của sự di chuyển đến mạch máu phổi đã được báo cáo. Nếu que cấy nằm ở ngực, có thể cần đến phẫu thuật hoặc thủ thuật nội mạch để rút que cấy ra; nên tham vấn các chuyên gia y tế thành thạo về giải phẫu của ngực.

Trong trường hợp các phương pháp chẩn đoán hình ảnh định vị que cấy thất bại, việc xác định nồng độ etonogestrel trong máu có thể được sử dụng để xác định sự hiện diện của que cấy. Xin liên hệ nhà cung cấp tại địa phương để được hướng dẫn thêm.

Nếu que cấy di chuyển bên trong cánh tay, việc rút ra có thể đòi hỏi tiểu phẫu với một đường rạch lớn hơn hoặc phẫu thuật trong phòng mổ. Rút các que cấy được cấy sâu cần được tiến hành thận trọng để giúp ngăn ngừa tổn thương các cấu trúc thần kinh hoặc mạch máu sâu hơn ở cánh tay. Que cấy không sờ thấy được và được cấy sâu cần được rút bởi các chuyên gia y tế thành thạo giải phẫu của cánh tay và rút các que cấy được cấy sâu.

Khuyến cáo không nên phẫu thuật thăm dò khi chưa biết vị trí chính xác của que cấy.

Xin liên hệ nhà cung cấp tại địa phương để được hướng dẫn thêm.

Cách thay Implanon NXT

Có thể thay ngay que cấy mới sau khi rút que cấy cũ và cũng tương tự như thủ thuật cấy được mô tả trong phần “Cách cấy Implanon NXT”.

Que cấy mới có thể được cấy vào trong cùng một cánh tay và qua cùng một đường rạch dùng để rút que cấy cũ. Nếu đang sử dụng cùng một đường rạch để cấy một que cấy mới, gây tê vị trí cấy [ví dụ 2 mL lidocaine (1%)] ngay dưới da tại đường rạch để rút que cấy dọc theo chiều dài “rãnh cấy” và tuân theo các bước tiếp theo như mô tả trong phần hướng dẫn về cấy.

Cảnh báo

Bất kỳ dấu hiệu nào dưới đây xuất hiện lần đầu trong thời gian dùng Implanon NXT, nên dừng thuốc ngay lập tức.

Đã biết hoặc nghi ngờ có thai.

Đang bị rối loạn huyết khối tĩnh mạch.

Đã xác định hoặc nghi ngờ bị các bệnh ác tính mẫn cảm với steroid sinh dục.

Đang có hoặc tiền sử có khối u gan (lành tính hoặc ác tính).

Hiện tại hoặc tiền sử bệnh gan nặng với các thông số chức năng gan chưa trở lại bình thường.

Xuất huyết âm đạo không rõ nguyên nhân.

Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ tá dược nào của Implanon NXT.

Nếu có bất kỳ tình trạng/yếu tố nguy cơ nào được đề cập dưới đây, nên cân nhắc lợi ích của việc sử dụng progestagen với nguy cơ có thể xảy ra đối với từng phụ nữ và thảo luận với họ trước khi họ quyết định sử dụng Implanon NXT. Nếu bất kỳ tình trạng nào dưới đây trở nên trầm trọng hơn, kịch phát hoặc xuất hiện lần đầu tiên, nên tham khảo ý kiến bác sỹ. Bác sỹ sẽ quyết định có nên ngừng biện pháp hay không.

Ung thư vú

Nói chung nguy cơ ung thư vú tăng theo tuổi. Nguy cơ ung thư vú hơi tăng trong thời gian dùng thuốc tránh thai (phối hợp) dạng uống. Sự tăng nguy cơ này mất dần trong vòng 10 năm sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai uống và không liên quan đến thời gian dùng thuốc mà liên quan đến tuổi của người phụ nữ khi uống thuốc tránh thai. Số trường hợp ung thư vú dự kiến trên mỗi 10.000 phụ nữ dùng thuốc tránh thai phối hợp dạng uống (tính đến 10 năm sau khi ngừng thuốc) so với người chưa bao giờ sử dụng các thuốc này trong cùng thời gian đó được tính theo các nhóm tuổi tương ứng là: 4,5/4 (16-19 tuổi), 17,5/16 (20-24 tuổi), 48,7/44 (25-29 tuổi), 110/100 (30-34 tuổi), 180/160 (35-39 tuổi) và 260/230 (40-44 tuổi). Nguy cơ ở những phụ nữ dùng các phương pháp tránh thai chỉ chứa progestagen có thể có biên độ tương tự như khi uống viên thuốc tránh thai phối hợp. Tuy nhiên, đối với các biện pháp này, chưa đủ bằng chứng để kết luận. So với nguy cơ bị ung thư vú trong đời, sự gia tăng nguy cơ ung thư vú liên quan đến thuốc tránh thai dạng uống là thấp. Những trường hợp ung thư vú trên phụ nữ dùng thuốc tránh thai dạng uống có xu hướng ít tiến triển hơn so với những người chưa từng sử dụng thuốc tránh thai uống. Tăng nguy cơ trên phụ nữ uống thuốc tránh thai có thể do chẩn đoán sớm hơn, do tác dụng sinh học của thuốc tránh thai dạng uống hoặc do kết hợp cả hai.

Bệnh gan

Khi xuất hiện rối loạn chức năng gan cấp hoặc mạn tính tốt nhất nên đi kiểm tra và khám chuyên khoa.

Huyết khối và các biến cố mạch máu khác

Những nghiên cứu dịch tễ học đã liên kết việc sử dụng thuốc tránh thai phối hợp dạng uống với sự gia tăng tỷ lệ tắc tĩnh mạch do huyết khối (venous thromboembolism - VTE, huyết khối tĩnh mạch sâu và nghẽn mạch phổi). Mặc dù chưa biết có sự liên quan lâm sàng của phát hiện này đối với etonogestrel (chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học của desogestrel) được dùng trong viên tránh thai không chứa thành phần estrogen hay không, nhưng nên rút que cấy trong trường hợp đã xác định có huyết khối. Cũng nên xem xét rút que cấy trong trường hợp bất động lâu ngày do phẫu thuật hoặc do bệnh lý. Mặc dù Implanon NXT là thuốc tránh thai chỉ chứa progestagen, khuyến cáo đánh giá các yếu tố nguy cơ đã biết làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch và động mạch. Nên thông báo cho người phụ nữ có tiền sử bị rối loạn huyết khối tắc mạch trước đây biết về khả năng tái phát bệnh.

Đã có các báo cáo hậu mãi về các biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch và tĩnh mạch nghiêm trọng, bao gồm cả trường hợp nghẽn mạch phổi (một số trường hợp tử vong), huyết khối tĩnh mạch sâu, nhồi máu cơ tim và đột quỵ ở phụ nữ sử dụng que cấy chứa etonogestrel. Phải rút que cấy Implanon NXT trong trường hợp bị huyết khối.

Cao huyết áp

Nên ngừng sử dụng Implanon NXT nếu bị cao huyết áp kéo dài trong suốt thời gian dùng Implanon NXT, hoặc nếu bị cao huyết áp đáng kể mà không đáp ứng với điều trị hạ huyết áp.

Các ảnh hưởng lên sự chuyển hóa carbonhydrate và lipid

Mặc dù progestagen có thể ảnh hưởng đến sự đề kháng insulin ngoại biên và sự dung nạp glucose, không có bằng chứng về sự cần thiết thay đổi chế độ điều trị ở bệnh nhân tiểu đường sử dụng phương pháp tránh thai chỉ chứa progestagen. Tuy nhiên, phụ nữ bị bệnh tiểu đường cần được theo dõi thận trọng trong khi sử dụng các phương pháp tránh thai chỉ chứa progestagen.

Với phụ nữ đang điều trị tăng lipid máu, nên được theo dõi chặt chẽ nếu quyết định dùng Implanon NXT. Một vài progestagen có thể làm tăng mức LDL và có thể làm cho việc kiểm soát lipid máu trở nên khó khăn hơn.

Nám da

Đôi khi xuất hiện nám da, đặc biệt ở những phụ nữ có tiền sử nám da lúc mang thai. Phụ nữ có xu hướng nám da nên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc tia tử ngoại trong thời gian dùng Implanon NXT.

Thể trọng

Hiệu quả tránh thai của Implanon NXT liên quan đến nồng độ etonogestrel trong huyết tương mà nồng độ này vốn tỷ lệ nghịch với thể trọng, và giảm dần theo thời gian đặt que cấy. Kinh nghiệm lâm sàng trong năm sử dụng thứ ba ở những phụ nữ nặng cân còn hạn chế. Do đó không thể loại trừ hiệu quả tránh thai ở phụ nữ nặng cân trong năm thứ ba là thấp hơn so với phụ nữ cân nặng bình thường. Các nhân viên y tế có thể cần xem xét để thay que cấy sớm hơn cho những phụ nữ nặng cân.

Các biến chứng cấy que

Có thể tuột que cấy đặc biệt là khi que không được cấy đúng như hướng dẫn nêu trong mục “Cách cấy Implanon NXT”, hoặc là kết quả của phản ứng viêm tại chỗ.

Đã có các báo cáo về sự di chuyển que cấy khỏi vị trí cấy trong cánh tay, có thể do cấy sâu hoặc do ngoại lực (như nắn bóp que cấy hoặc va chạm trong thể thao). Cũng có những báo cáo sau lưu hành tuy hiếm về que cấy nằm bên trong các mạch máu ở cánh tay và động mạch phổi, có thể do cấy sâu hoặc cấy vào trong mạch. Trong những trường hợp que cấy di chuyển khỏi vị trí cấy việc định vị có thể khó khăn hơn và khi rút que cấy cần đến thủ thuật phẫu thuật nhỏ bằng cách rạch rộng hơn hoặc thủ thuật phẫu thuật trong phòng phẫu thuật. Trong các trường hợp mà que cấy di chuyển vào động mạch phổi, có thể cần phẫu thuật hoặc thủ thuật nội mạch để rút que cấy. Bất cứ khi nào không sờ thấy que cấy, cần định vị và rút que cấy. Nếu không thể rút que cấy, tác dụng tránh thai và nguy cơ tác dụng ngoại ý liên quan đến progestagen có thể tiếp diễn quá thời gian mong đợi.

U nang buồng trứng

Cũng như các thuốc tránh thai chứa nội tiết liều thấp, nang noãn có thể phát triển và đôi khi tiếp tục phát triển vượt kích thước bình thường. Thường thì những nang noãn ngoại cỡ này tự biến mất. Thông thường, chúng không gây triệu chứng; một vài trường hợp gây đau bụng nhẹ. Hiếm khi cần can thiệp phẫu thuật.

Mang thai ngoài tử cung

Tác dụng tránh thai ngoài tử cung của các thuốc tránh thai cổ điển chỉ chứa progestagen không tốt như thuốc phối hợp dạng uống vì sự rụng trứng thường xảy ra trong khi dùng phương pháp này. Cho dù thực tế Implanon NXT có tác dụng ức chế sự rụng trứng nhưng cũng cần chẩn đoán phân biệt có thai ngoài tử cung nếu người phụ nữ mất kinh hoặc đau bụng.

Các tình trạng khác

Những tình trạng sau đây đã được báo cáo khi mang thai hoặc sử dụng steroid sinh dục nhưng chưa xác định được mối liên quan với progestagen: vàng da và/hoặc ngứa do ứ mật; hình thành sỏi mật; rối loạn chuyển hóa porphyrin; Lupus ban đỏ toàn thân; hội chứng tăng urê máu do tán huyết; múa vờn Sydenham; Herpes trong thời gian mang thai; mất thính lực do xơ cứng tai và phù mạch (di truyền).

Thăm khám lâm sàng/hội chẩn

Trước khi bắt đầu sử dụng hoặc dùng lại Implanon NXT nên hỏi đầy đủ bệnh sử (bao gồm tiền sử gia đình) và loại trừ có thai. Nên đo huyết áp và khám thực thể theo thông tin hướng dẫn trong Chống chỉ định và Cảnh báo. Nên khuyên người phụ nữ tái khám sau ba tháng cấy Implanon NXT. Trong khi tái khám nên đo huyết áp, giải đáp các câu hỏi, thắc mắc hoặc than phiền về tác dụng ngoại ý. Tần suất và tính chất của những lần khám định kỳ sau đó nên được điều chỉnh phù hợp với từng phụ nữ, tùy theo đánh giá lâm sàng.

Nên giải thích cho người phụ nữ biết Implanon NXT không bảo vệ họ khỏi lây nhiễm HIV (AIDS) và các bệnh lây truyền qua đường sinh dục khác.

Giảm hiệu quả do thuốc dùng đồng thời

Hiệu quả của Implanon NXT có thể suy giảm khi dùng cùng với các thuốc làm giảm nồng độ etonogestrel trong huyết tương.

Thay đổi kiểu xuất huyết âm đạo

Trong quá trình sử dụng Implanon NXT, người phụ nữ có thể thay đổi kiểu ra máu kinh và thường không dự đoán trước. Có thể xuất hiện kiểu ra máu kinh bất thường (mất kinh, thưa hơn, thường xuyên hơn hoặc ra máu liên tục), và thay đổi lượng máu kinh (giảm hoặc tăng) hoặc thời gian ra máu kinh. Mất kinh được báo cáo ở 1 trong số 5 phụ nữ trong khi 1 trong số 5 phụ nữ khác có báo cáo về thay đổi tần suất và/hoặc ra máu kéo dài. Ở nhiều phụ nữ, kiểu ra máu kinh trong ba tháng đầu tiên có thể dự đoán được kiểu ra máu kinh trong tương lai. Cung cấp thông tin, tư vấn và sử dụng nhật ký kinh nguyệt có thể cải thiện sự chấp nhận kiểu ra máu kinh của người phụ nữ. Nên đánh giá ra máu âm đạo khi cần thiết và có thể bao gồm khám lâm sàng để loại trừ bệnh lý phụ khoa hoặc có thai.

Que cấy bị gãy hoặc bị uốn cong ở vị trí trong cánh tay

Đã có báo cáo que cấy bị gãy hoặc bị uốn cong khi còn nằm trong cánh tay của bệnh nhân. Dựa trên các số liệu in vitro, khi que cấy bị gãy hay bị uốn cong, sự phóng thích etonogestrel có thể tăng nhẹ. Sự thay đổi này không được cho là có tác dụng có ý nghĩa về mặt lâm sàng.

Điều quan trọng là phải lấy hết toàn bộ que cấy khi thực hiện lấy que cấy ra.

Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc

Những bệnh nhân bị chóng mặt, nhức đầu, hoặc buồn ngủ trong khi dùng Implanon NXT nên hạn chế lái xe và vận hành máy móc.

Quá liều

Phải rút que cấy cũ ra trước khi cấy que cấy mới. Chưa có dữ liệu về Quá liều etonogestrel. Nhìn chung không có báo cáo tác dụng có hại nghiêm trọng khi dùng Quá liều thuốc tránh thai.

Chống chỉ định

Thuốc tránh thai chỉ chứa progestagen không được dùng khi có bất kỳ tình trạng nào dưới đây:

Đã biết hoặc nghi ngờ có thai.

Đang bị rối loạn huyết khối tĩnh mạch.

Đã xác định hoặc nghi ngờ bị các bệnh ác tính mẫn cảm với steroid sinh dục.

Đang có hoặc tiền sử có khối u gan (lành tính hoặc ác tính).

Hiện tại hoặc tiền sử bệnh gan nặng với các thông số chức năng gan chưa trở lại bình thường.

Xuất huyết âm đạo không rõ nguyên nhân.

Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ tá dược nào của Implanon NXT.

Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú

Không được dùng Implanon NXT trong thời gian mang thai. Nên rút que cấy nếu có thai trong thời gian dùng Implanon NXT. Những nghiên cứu trên động vật cho thấy liều rất cao progestagen có thể gây tình trạng nam hóa những bào thai giống cái. Những nghiên cứu dịch tễ sâu rộng không thấy tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ những người mẹ sử dụng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp trước khi mang thai, cũng không gây quái thai khi vô tình uống thuốc tránh thai phối hợp trong thời kỳ mang thai. Mặc dù điều này có thể áp dụng cho tất cả thuốc tránh thai đường uống, nhưng chưa rõ có phù hợp với Implanon NXT hay không.

Dữ liệu dược cảnh giác với nhiều thuốc tránh thai chứa etonogestrel và desogestrel (etonogestrel là chất chuyển hóa của desogestrel) không cho thấy tăng nguy cơ.

Dữ liệu lâm sàng cho thấy Implanon NXT không ảnh hưởng đến sự tiết sữa hoặc chất lượng sữa mẹ (nồng độ protein, lactose hoặc chất béo). Tuy nhiên chỉ một lượng nhỏ etonogestrel được tiết vào sữa mẹ. Dựa trên lượng sữa bú trung bình mỗi ngày là 150 mL/kg, liều etonogestrel trung bình hàng ngày ở trẻ bú mẹ tính sau một tháng là khoảng 27 ng/kg/ngày. Liều này tương ứng khoảng 2,2% liều hàng ngày điều chỉnh theo thể trọng của người mẹ và khoảng 0,2% liều tuyệt đối hàng ngày của người mẹ. Sau đó nồng độ etonogestrel giảm dần theo thời gian bú mẹ.

Dữ liệu theo dõi kéo dài ở 38 trẻ em có mẹ cấy que cấy trong thời gian từ tuần 4 đến tuần 8 sau khi sinh. Những đứa trẻ này được bú mẹ đến 14 tháng và được theo dõi đến 36 tháng tuổi. Đánh giá sự tăng trưởng, phát triển thể chất và tâm thần vận động không cho thấy sự khác biệt so với những đứa trẻ được bú mẹ mà người mẹ sử dụng vòng tránh thai (IUD) (n=33). Tuy nhiên, cần theo dõi thận trọng sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. Dựa trên dữ liệu thu được, Implanon NXT có thể được sử dụng trong thời kỳ cho con bú và có thể được cấy sau khi sinh 4 tuần.

Tương tác thuốc

Lưu ý: cần tham khảo thông tin kê toa của các thuốc dùng đồng thời để xác định các tương tác có thể xảy ra.

Ảnh hưởng của các thuốc khác đến Implanon NXT

Tương tác giữa các thuốc tránh thai nội tiết và các thuốc khác có thể dẫn đến ra máu kinh và/hoặc giảm tác dụng tránh thai.

Các tương tác sau đã được ghi nhận trong y văn (chủ yếu với thuốc tránh thai nội tiết phối hợp nhưng đôi khi cũng xảy ra với thuốc tránh thai chỉ chứa progestagen).

Chuyển hóa tại gan

Có thể xuất hiện tương tác với các thuốc hoặc các sản phẩm thảo dược gây cảm ứng men gan, nhất là các men cytochrome P450 (CYP), có thể gây tăng thanh thải, giảm nồng độ huyết tương của nội tiết tố sinh dục và có thể làm giảm hiệu quả của Implanon NXT. Những chế phẩm này bao gồm phenytoin, phenobarbital, primidon, bosentan, carbamazepin, rifampicin, và cũng có thể oxcarbazepin, topiramat, felbamat, griseofulvin, một số chất ức chế protease HIV (như ritonavir) và các chất ức chế men sao chép ngược non-nucleoside (như efavirenz) và sản phẩm chứa phương thuốc thảo dược của thánh Johns.

Cảm ứng enzyme có thể xảy ra sau vài ngày điều trị. Cảm ứng enzyme tối đa thường được quan sát thấy trong vòng vài tuần. Sau khi ngừng điều trị, cảm ứng enzyme có thể kéo dài khoảng 28 ngày.

Khi dùng cùng với thuốc tránh thai nội tiết tố, các kết hợp của chất ức chế protease HIV (ví dụ: nelfinavir) và các chất ức chế men sao chép ngược non-nucleoside (như nevirapine), và/hoặc các sự kết hợp với các thuốc điều trị virus viêm gan C (HCV) (ví dụ boceprevir, telaprevir), có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ trong huyết tương của các progestin, bao gồm etonogestrel. Tác động thực sự của những thay đổi này có thể thể hiện qua lâm sàng trong một số trường hợp.

Nên lưu ý việc Implanon NXT có thể bị giảm hiệu quả ở những phụ nữ đang dùng bất kỳ thuốc hoặc sản phẩm thảo dược gây cảm ứng men gan nêu trên. Nếu người phụ nữ quyết định tiếp tục dùng Implanon NXT, nên lưu ý họ dùng một phương pháp tránh thai không nội tiết trong suốt thời gian dùng thuốc đồng thời và đến 28 ngày sau khi ngừng thuốc.

Sử dụng đồng thời các thuốc ức chế CYP3A4 mạnh (ví dụ ketoconazole, itraconazole, clarithromycin) hoặc trung bình (ví dụ fluconazole, diltiazem, erythromycin) có thể làm tăng nồng độ các progestin trong huyết thanh, kể cả etonogestrel.

Ảnh hưởng của Implanon NXT đến các thuốc khác

Thuốc tránh thai nội tiết có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa của các thuốc khác. Theo đó, nồng độ các thuốc này trong huyết tương và trong mô có thể tăng lên (như ciclosporin) hoặc giảm đi (như lamotrigin).

Các thông số xét nghiệm

Dữ liệu thu được với thuốc tránh thai phối hợp dạng uống cho thấy các steroid có thể ảnh hưởng đến kết quả của một số xét nghiệm cận lâm sàng, bao gồm các thông số sinh hóa của chức năng gan, tuyến giáp, thận và tuyến thượng thận, nồng độ các protein (chất mang) trong huyết thanh, như globulin gắn kết corticosteroid, các thành phần lipid/lipoprotein, các thông số chuyển hóa carbohydrat và các thông số về đông máu và tiêu sợi huyết. Những thay đổi này thường nằm trong giới hạn bình thường. Chưa biết rõ mức độ liên quan những thay đổi này khi dùng thuốc tránh thai chỉ chứa progestagen.

Tác dụng ngoại ý

Trong thời gian dùng Implanon NXT, người phụ nữ thường có những thay đổi kiểu ra máu kinh, có thể là thay đổi tần suất ra máu kinh (không có, thưa hơn, thường xuyên hơn hoặc liên tục), lượng máu kinh (giảm hoặc tăng) hoặc thời gian ra máu kinh. Vô kinh được báo cáo ở khoảng 1 trên 5 người phụ nữ trong khi 1 trên 5 người phụ nữ khác đã báo cáo ra máu kinh thường xuyên và/hoặc kéo dài hơn. Đôi khi có báo cáo chảy máu nặng. Trong các thử nghiệm lâm sàng, thay đổi kiểu ra máu kinh là lý do phổ biến nhất gây ngừng sử dụng (khoảng 11%). Chứng đau bụng kinh có xu hướng được cải thiện khi dùng Implanon NXT. Những thay đổi về kiểu ra máu kinh trong ba tháng sử dụng đầu tiên thường là cơ sở để dự đoán kiểu ra máu kinh trong tương lai ở nhiều phụ nữ.

Trong một thử nghiệm lâm sàng về Implanon NXT, trong đó các nhà nghiên cứu đã yêu cầu kiểm tra vị trí que cấy sau khi đặt vào, phản ứng tại chỗ cấy đã được báo cáo ở 8,6% phụ nữ. Ban đỏ là biến chứng tại chỗ cấy thường gặp nhất, được báo cáo trong và/hoặc ngay sau khi đặt que cấy, xảy ra ở 3,3% đối tượng. Ngoài ra, khối tụ máu (3%), bầm tím (2%), đau (1%) và sưng (0,7%) đã được báo cáo.

Trong điều tra sau khi lưu hành sản phẩm, đã gặp tăng huyết áp liên quan đến lâm sàng nhưng hiếm. Tăng tiết bã nhờn cũng được báo cáo. Phản ứng phản vệ, nổi mề đay, phù mạch, phù mạch trầm trọng hơn và/hoặc phù mạch di truyền trầm trọng hơn có thể xảy ra. Cấy hoặc rút que cấy có thể gây bầm tím, kích ứng nhẹ tại chỗ, đau hoặc ngứa. Có thể xuất hiện xơ hóa tại chỗ cấy, có thể hình thành sẹo hoặc phát triển ổ áp-xe. Có thể xuất hiện dị cảm hoặc giống dị cảm. Đã có báo cáo về việc tuột hoặc di chuyển que cấy, bao gồm di chuyển tới lồng ngực tuy hiếm. Trong những trường hợp hiếm này, các que cấy được tìm thấy trong mạch bao gồm cả động mạch phổi. Vài trường hợp que cấy được tìm thấy trong động mạch phổi có báo cáo về việc đau ngực và/hoặc khó thở; các trường hợp khác báo cáo không có triệu chứng. Có thể cần can thiệp phẫu thuật khi rút que cấy.

Trong trường hợp hiếm đã có báo cáo mang thai ngoài tử cung.

Ở những người phụ nữ dùng thuốc tránh thai (phối hợp dạng uống) một số tác dụng ngoại ý (nghiêm trọng) đã được báo cáo. Các tác dụng này bao gồm bệnh lý huyết khối nghẽn tĩnh mạch, huyết khối nghẽn động mạch, khối u phụ thuộc nội tiết (như u gan, ung thư vú) và nám da, một số đã được trình bày chi tiết trong mục “Cảnh báo”.

Bảo quản

Bảo quản trong bao bì gốc dưới 30oC.

Dụng cụ chỉ được dùng một lần.

Trình bày và đóng gói

Que cấy dưới da: hộp 1 que, hộp 5 que.

[Thanh mềm, dẻo, màu trắng đến trắng nhạt, dài 4cm và đường kính 2mm, được nạp sẵn trong kim thép không gỉ của một dụng cụ vô khuẩn, dùng một lần, sẵn sàng để sử dụng. Dụng cụ cấy chứa que cấy được đóng trong một vỉ làm bằng polyethyleneterephtalat glycol (PETG) trong suốt được dán kín với một cái nắp. Vỉ đựng dụng cụ cấy này được đóng trong hộp carton cùng với ''Tờ hướng dẫn sử dụng''].

Bài viết cùng chuyên mục

Isavuconazonium Sulfate: thuốc điều trị nấm

Isavuconazonium Sulfate là loại thuốc kê đơn dùng cho người lớn để điều trị nấm như bệnh Aspergillosis và bệnh Mucormycosis, tên thương hiệu Cresemba, Isavuconazole.

Imipenem Cilastatin Kabi

250 mg hoặc 500 mg truyền tĩnh mạch trong 20 - 30 phút, liều 1000 mg cần truyền trong 40 - 60 phút. Nếu biểu hiện buồn nôn khi đang truyền: giảm tốc độ truyền.

Idarac

Phản ứng kiểu phản vệ như cảm giác kiến bò, cảm giác nóng bỏng ở mặt và các chi, ửng đỏ toàn thân kèm ngứa, mề đay, phù mạch, khó thở dạng suyễn, cảm giác khó chịu toàn thân với ngất xỉu và hạ huyết áp đưa đến trụy mạch, sốc.

Intron A

Intron A được tạo thành qua quá trình đông khô, ổn định, tiệt trùng từ một chất có độ tinh khiết cao là Interferon alfa-2b, chất này được sản xuất bằng các kỹ nghệ tái tổ hợp DNA.

Irprestan

Thận trọng giảm thể tích nội mạch, tăng kali huyết, hẹp động mạch chủ, hẹp van 2 lá, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, cường aldosterone nguyên phát, hẹp động mạch thận 2 bên, suy thận.

Isobar

Isobar! Thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali, thải natri mức độ vừa phải, tác động bằng cách ức chế chức năng trao đổi ion ở ống lượn xa, làm giảm sự bài tiết kali, tăng bài tiết natri, chlore và bicarbonate.

Interferon beta

Interferon beta được chỉ định để giảm tần số và mức độ nặng của các lần tái phát lâm sàng. Interferon beta thể hiện tác dụng sinh học bằng cách gắn vào những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt của các tế bào người.

Intralipid: thuốc cung cấp năng lượng đường tĩnh mạch

Intralipid là nhũ dịch của dầu đậu tương được đẳng trương hóa bằng glycerol và được nhũ hóa bằng các phospho lipid lấy từ lòng đỏ trứng.

Imodium

Điều trị triệu chứng tiêu chảy cấp ở người lớn và trẻ em ≥ 12 tuổi., các đợt tiêu chảy cấp liên quan hội chứng ruột kích thích ở người lớn ≥ 18 tuổi. đang được bác sỹ chẩn đoán sơ bộ.

Invanz: điều trị các bệnh nhiễm khuẩn từ trung bình tới nặng

Invanz (Ertapenem dùng để tiêm) là 1-β methyl-carbapenem tổng hợp, vô khuẩn, dùng đường tiêm, có tác dụng kéo dài và có cấu trúc dạng beta-lactam, như là penicillin và cephalosporin.

Jasugrel: thuốc dự phòng biến cố huyết khối mạch vành

Jasugrel, sử dụng phối hợp với acid acetylsalicylic, được chỉ định trong dự phòng biến cố huyết khối trên bệnh nhân là người trưởng thành bị hội chứng mạch vành cấp, đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim.

Indinavir sulfat

Indinavir là chất ức chế enzym protease của virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Tác dụng của indinavir là ức chế protease ghi mã của HIV - 1 và HIV - 2.

Imbruvica: thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích

Phản ứng phụ rất thường gặp viêm phổi, nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm xoang, nhiễm trùng da; giảm bạch cầu trung tính.

Idelalisib: thuốc chống ung thư

Idelalisib được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính, u lympho không Hodgkin tế bào B dạng nang và u lympho tế bào nhỏ, tên thương hiệu khác Zydelig.

Isoflurane: thuốc gây mê

Isoflurane là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để gây mê và duy trì mê cho người lớn, thương hiệu Forane.

Isosorbid: thuốc lợi tiểu thẩm thấu

Isosorbid không có tác động trên thụ thể đặc hiệu, mà tác động vào thành phần dịch ống thận bằng cách phân tán vào dịch ngoài tế bào

Ivermectin

Ivermectin có hiệu quả trên nhiều loại giun tròn như giun lươn, giun tóc, giun kim, giun đũa, giun móc và giun chỉ Wuchereria bancrofti. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng trên sán lá gan và sán dây.

Mục lục các thuốc theo vần I

Ibiman - xem Cefamandol, Ibu - xem Ibuprofen, Ibuflamar 400 - xem Ibuprofen, Ibuprofen, Ibuprofen 400 - xem Ibuprofen, Icaz - xem Isradipin, Idamycin - xem Idarubicin.

Isomil

Dùng muỗng lường kèm theo hộp sữa, pha 1 muỗng sữa bột với 60 ml nước đun sôi để nguội đến khoảng 50 độ C, không nên thêm nước hoặc bột làm thay đổi nồng độ.

Irinotecan Bidiphar: thuốc điều trị ung thư ruột kết, trực tràng

Irinotecan Bidiphar 40mg/2ml được chỉ định để điều trị cho bệnh nhân ung thư ruột kết, trực tràng tiến triển, là liệu pháp đơn trị liệu cho bệnh nhân không thành công với phác đồ điều trị chứa 5 - fluorouracil đã thiết lập.

Ibuprofen pseudoephedrine: thuốc điều trị cảm lạnh

Ibuprofen pseudoephedrine là sản phẩm không kê đơn được sử dụng để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, tên thương hiệu khác Advil Cold và Sinus.

IncobotulinumtoxinA: thuốc chẹn cơ thần kinh

IncobotulinumtoxinA được sử dụng cho bệnh xuất huyết mãn tính, để điều trị chứng co cứng chi trên ở người lớn, để giảm mức độ nghiêm trọng của vị trí đầu bất thường và đau cổ ở cả bệnh nhân độc tố botulinum.

Janumet

Chống chỉ định với bệnh thận, rối loạn chức năng thận. Mẫn cảm với sitagliptin phosphate, metformin hydrochloride hoặc bất kỳ thành phần nào khác của JANUMET.

Iressa: thuốc điều trị ung thư phổi loại không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển

Iressa được chỉ định điều trị cho bệnh nhân người lớn ung thư phổi loại không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển tại chỗ hoặc di căn mà có đột biến hoạt hóa EGFR TK.

Intrazoline

Intrazoline! Nhiễm trùng do chủng nhạy cảm, chủ yếu trong các biểu hiện nhiễm trùng ở miệng, đường tai mũi họng, phế quản-phổi, tiết niệu-sinh dục, nhiễm trùng huyết, viêm màng trong tim.