Nhiễm sắc tố sắt mô

2016-05-01 03:49 PM

Những trường hợp dị hợp tử sẽ không xuất hiện nhưng biến chứng của quá tải sắt khi không có các bệnh kèm theo như viêm gan virus.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm sắc tố sắt mô là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường, nhiều trường hợp liên kết với HLA- A3 và HLA- B14 hoặc HLA- B7. Gần đây, sự khiếm khuyết về di truyền chủ yếu được xác định như đột biến trong gen mới phát hiện có tên là HFE trên nhiễm sắc thể số 6. Sự thay đổi dẫn đến thay thế tyrosin cho cystein ở vị trí 282 (C282) ở vùng gen tạo ra mối liên quan đến sự tương tác với P2- microglobulin ảnh hưởng đến sự bộc lộ trên bề mặt tế bào nhưng chức năng chính xác của protein này còn chưa rõ. Khoảng 90% người bị nhiễm sắc tố sắt mô được xác định rõ là đồng hợp tử với HFE. Đột biến gen thứ hai dẫn đến thay thế acid aspartic cho histidin ở vị trí 63 của protein này có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh nhiễm sắc tố sắt mô ở số lượng nhỏ bệnh nhân. Bệnh được đặc trưng bằng tăng tích tụ sắt như hemosiderin trong gan, tụy, tim, tuyến thượng thận, tinh hoàn, tuyến yên và thận. Cuối cùng bệnh nhân có thể bị thiểu năng gan, tụy, tim, và nhược năng tuyến sinh dục. Bệnh hiếm khi được phát hiện trước tuổi 50.

Những trường hợp dị hợp tử sẽ không xuất hiện nhưng biến chứng của quá tải sắt khi không có các bệnh kèm theo như viêm gan virus.

Các biểu hiện lâm sàng

Biểu hiện lâm sàng bao gồm bệnh khớp, gan to và bằng chứng của thiểu năng gan (dấu hiệu muộn), đôi khi có tăng sắc tố da (sự kết hợp màu xám đá do sắt và màu nâu do melanin, đôi khi dẫn đến màu đồng); tim to có kèm theo hoặc không kèm theo suy tim hoặc khiếm khuyết dẫn truyền, đái tháo đựờng với các biến chứng của nó và bất lực ở nam giới. Chảy máu do giãn tĩnh mạch thực quản có thể xảy ra, và ở những bệnh nhân xơ gan sẽ có 15- 20% bị carcinoma tế bào gan. Bệnh nên được xem xét ở những bệnh nhân có tiền sử gia đình hoặc những bất thường nhẹ về xét nghiệm chức năng gan không giải thích được. Biến thể của bệnh ở những bệnh nhân quanh tuổi 20 được đặc trưng bằng rối loạn hoạt động của tim, nhược năng sinh dục - nhược năng hướng sinh dục và tỷ lệ tử vong cao, không kèm theo đột biến C282Y.

Các dấu hiệu cận lâm sàng bao gồm các xét nghiệm chức năng gan có bất thường nhẹ (AST, phosphatase kiềm), sắt huyết tương tăng trên 50% độ bão hòa của transterrin, và tăng ferritin huyết thanh (mặc dù ferritin bình thường không loại trừ chẩn đoán). CT scan và MRI có thể cho thấy những thay đổi nhất thời với quá tải sắt của gan nhưng những kỹ thuật này không đủ nhạy để sàng lọc cho những người không có triệu chứng. Sinh thiết gan điển hình cho thấy sự lắng đọng quá mức của sắt trong các tế bào gan, và thường trong các ống mật, thành mạch và mô chống đỡ. Chẩn đoán xác định dựa vào chỉ số sắt gan trên mẫu sinh thiết gan (lượng sắt trong gan/ số gam gan chuyển thành micromole và chia cho tuổi của bệnh nhân). Khi không có quá tải sắt thứ phát do huyết tán nặng thì chỉ số sắt gan > 1,9 sẽ gợi ý bệnh nhiễm sắc tố sắt mô.

Điều trị

Chẩn đoán và điều trị sớm trong giai đoạn tiền xơ gan của bệnh nhiễm sắc tố sắt mô là vô cùng quan trọng. Điều trị bao gồm bắt đầu bằng chích máu tĩnh mạch hàng tuần 500 ml (khoảng 250 mg sắt), liên tục trong 2- 3 năm để loại bỏ sắt dự trữ. Kỹ thuật này cần được theo dõi dựa vào hematocrit và xác định rõ sắt huyết thanh. Khi đã loại được sắt dự trữ, cần tiếp tục duy trì chích máu tĩnh mạch (sau mỗi 2- 4 tháng). Tác nhân tạo chelat deferoxamin dùng đường tĩnh mạch hoặc dưới da với liều 40- 50 mg/kg/ngày trong suốt 12 giờ có thể huy động được 30 mg sắt mỗi ngày. Thuốc được chỉ định cho những bệnh nhân nhiễm sắc tố sắt mô và thiếu máu hoặc quá tải sắt thứ phát do bệnh thiếu máu vùng biển không dung nạp liệu pháp chích máu tĩnh mạch. Tuy nhiên, cách điều trị này đau và không phải lúc nào cũng thiết thực. Những biến chứng của nhiễm sắc tố sắt mô như bệnh khớp, đái tháo đường, bệnh tim, tăng áp cửa và nhược năng tuyến yên có thể cần phải điều trị.

Diễn biến của bệnh có chiều hướng tốt nhờ liệu pháp rút máu tĩnh mạch. Ở những bệnh nhân tiền xơ gan, có thể dự phòng được xơ gan. Thiếu hụt dẫn truyền tim và yêu cầu insulin được cải thiện với điều trị. Ở nhứng bệnh nhân xơ gan, giãn tĩnh mạch có thể hồi phục và nguy cơ chảy máu giảm. Tuy nhiên, những bệnh nhân xơ gan phải được theo dõi sự phát triển carcinoma tế bào gan. Ghép gan cho xơ gan tiến triển do bệnh nhiễm sắc tố sắt mô có tỷ lệ tử vong thấp hơn những loại bệnh gan khác bởi vì những biến chứng tim. Những thành viên trong gia đình cần được sàng lọc bằng các xểt nghiệm sắt huyết thanh và khi có gen HFE ở đầu hệ. Sàng lọc tất cả nam giới da trắng trên 30 tuổi bằng đánh giá độ bão hòa transferrin đã được khuyến cáo.

Bài viết cùng chuyên mục

Carcinoma tụy và vùng quanh bóng Vater

Với carcinoma đầu tụy, chụp phim hàng loạt đường tiêu hóa trên có thể cho thấy có sự giãn rộng của quai tá tràng, những bất thường niêm mạc của tá tràng.

Viêm tụy cấp

Đau bụng vùng thượng vị, thường khởi phát đột ngột, và đau liên tục, dữ dội, nặng hơn khi đi lại, nằm ngửa và giảm khi ngồi ngả người ra phía trước.

Carcinoma đường mật

Hoàng đảm tăng lên là dấu hiệu phổ biến nhất và thường là dấu hiệu đầu tiên của tắc nghẽn hệ thống đường mật ngoài gan, Đau thường có ở phần tư trên bên phải của bụng.

Viêm ống mật xơ hóa nguyên phát

Về mặt lâm sàng, bệnh biểu hiện như hoàng đảm tắc nghẽn tăng dần, thường kèm theo khó chịu, ngứa, chán ăn và tiêu hóa kém.

Chít hẹp đường mật

Viêm đường mật là biến chứng phổ biến nhất của chít hẹp, Điển hình là bệnh nhân trải qua những giai đoạn có đau, sốt, ớn lạnh, và hoàng đảm.

Sỏi mật

Sỏi mật được xếp loại theo thành phần hóa học như sỏi có chứa chủ yếu cholesterol và chứa chủ yếu calci bilirubinat. Loại sau ít hơn 20% sỏi ở châu Âu hoặc Mỹ nhưng chiếm 30- 40% sỏi ở Nhật Bản.

Khối u gan lành tính

Trong một số trường hợp được lựa chọn, cắt qua nội soi có thể là dễ dàng. Sự thoái lui của những khối u gan lành tính có thể xảy ra sau khi ngừng các viên uống tránh thai.

Carcinoma tế bào gan

Về mặt mô học, carcinoma tế bào gan được hình thành từ các dây hoặc dải tế bào đại khái giống nhu mô gan. Những mạch máu như tĩnh mạch cửa hoặc gan thường bị ảnh hưởng do khối u.

Áp xe gan sinh mủ

Sốt hầu như luôn có và có thể xảy ra trước các triệu chứng hoặc dấu hiệu khác, Đau có thể là triệu chứng nổi bật và khu trú ở hạ sườn phải hoặc thượng vị

Tăng áp lực tĩnh mạch cửa không do xơ gan

Chụp mạch hệ cửa sẽ xác nhận, như khi sinh thiết bằng kim ở gan, nhất là bệnh sán máng và xơ hóa tĩnh mạch cửa trong gan không do xơ gan.

Tắc tĩnh mạch gan: hội chứng Budd Chiari

Những biểu hiện lâm sàng có thể bao gồm gan to đau, nhạy cảm đau; hoàng đảm; lách to; và cổ trướng. Khi bệnh tiến triển, giãn tĩnh mạch chảy máu và hôn mê gan có thể là rõ rệt.

Bệnh Wilson

Nhận biết bệnh là quan trọng vì bệnh có thể giống như ở viêm gan mạn tính, các rối loạn tâm thần hoặc bệnh thần kinh, Bệnh có thể hồi phục và điều trị thích hợp.

Gan nhiễm mỡ và viêm gan mỡ không do rượu

Thọái hóa mỡ vi mạch gặp trong hội chứng Reye, ngộ độc acid valproic, liều cao tetracyclin, hoặc gan nhiễm mỡ cấp tính lúc có thai và có thể dẫn đến suy gan tối cấp.

Viêm gan do rượu

Sinh thiết gan thường là để chẩn đoán và chỉ ra sự thâm nhiễm PMN, mỡ ở mạch máu lớn với hoại tử gan, và các thể Mallory (hyalin cồn). Xơ gan dạng nốt nhỏ có thể có.

Viêm gan mãn tính

Ớ những bệnh nhân viêm gan tự miễn, prednison dùng cùng với azathioprin hoặc không được cho là cải thiện các triệu chứng, làm giảm bilirubin, aminotransferase.

Suy gan tối cấp

Trong suy gan tối cấp do viêm gan, hoại tử lan rộng những vùng gan lớn gây bệnh cảnh mô bệnh học điển hình của teo gan. Nhiễm độc huyết, các triệu chứng dạ dày ruột và hiện tượng xuất huyết là thường gặp.

Viêm gan virus

Ở những người tổn thương miễn dịch, nên cân nhắc chẩn đoán phân biệt viêm gan, với nhiễm cytomegalovirus, Epstein Barr virus.

Viêm tụy mạn tính

Những đợt tái phát, hoặc dai dẳng của đau vùng thượng vị, và phần tư bụng trên bên trái lan tới vùng lưng trên bên trái là điển hình.

Bệnh sỏi ống mật chủ và viêm đường mật

Có bilirubin niệu và tăng bilirubin huyết thanh nếu ống mật chủ bị tắc nghẽn; mức độ thường dao động. Tăng phosphatase kiềm huyết thanh đặc biệt gợi ý tới hoàng đảm có tắc nghẽn.

Các hội chứng ống túi mật

Sau cắt bỏ túi mật, một số bệnh nhân phàn nàn là các triệu chứng vẫn tiếp tục như đau phần tư bụng trên bên phải, đầy hơi, và không dung nạp thức ăn mỡ.

Viêm túi mật cấp

Cơn cấp thường được thúc đẩy bởi một bữa ăn quá no hoặc quá nhiều chất béo và được đặc trưng bằng sự xuất hiện tương đối đột ngột của đau bụng liên tục và dữ dội.

Áp xe gan do amíp

Thường quan sát thấy nửa cơ hoành bên phải nhô cao lên trên chụp phim X quang ngực, Siêu âm, CT scan hoặc MRI là có giá trị trong xác định vị trí và số lượng áp xe.

Chẩn đoán vấn đề gan trong suy tim

Tỷ lệ tử vong do bệnh cơ bản là cao nhưng ở những bệnh nhân có thể hồi phục, mức aminotransferase trở lại bình thường nhanh chóng, thường trong vòng 1 tuần - ngược với viêm gan virus.

Xơ gan mật tiên phát

Nhiều bệnh nhân không có triệu chứng trong nhiều năm và thời gian sống trung bình sau khi các triệu chứng xuất hiện là 10 năm. Khởi phát bệnh âm thầm và được báo trước bằng biểu hiện ngứa.

Xơ gan

Xơ gan nốt to được đặc trưng bằng những nốt lớn có thể đo được vài centimet đường kính và có thể có các tĩnh mạch ở trung tâm, Thể này ít nhiều phù hợp với xơ gan.

Bệnh gan nhiễm độc và do thuốc

Ảnh hưởng trực tiếp của thuốc trên các cơ chế tiết mật như azathioprin, estrogen, hoặc các steroid đồng hóa chứa nhóm alkyl hoặc ethinyl ở carbon 17, mercaptopurin, methyltestosteron và cyclosporin.

Chẩn đoán hoàng đản

Màu sắc của phân và nước tiểu bình thường, có hoàng đảm nhẹ, tăng bilirubin gián tiếp trong máu nhưng không có bilirubin trong nước tiểu và lách to.