- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy
- Carcinoma tế bào gan
Carcinoma tế bào gan
Về mặt mô học, carcinoma tế bào gan được hình thành từ các dây hoặc dải tế bào đại khái giống nhu mô gan. Những mạch máu như tĩnh mạch cửa hoặc gan thường bị ảnh hưởng do khối u.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những khối u ác tính của gan phát sinh từ những tế bào nhu mô gọi là carcinoma tế bào gan; những khối u ác tính có nguồn gốc từ các tế bào ống mật gọi là carcinoma ống mật.
Carcinoma tế bào gan nhìn chung kèm theo xơ gan và đặc biệt là viêm gan B hoặc C. ở châu Phi và hầu hết châu Á, viêm gan B là yếu tố bệnh nguyên chính, trong khi ở các nước phương Tây và Nhật Bản thì viêm gan C và xơ gan do rượu lại là những nguyên nhân phổ biến nhất. Những tình trạng kết hợp khác bao gồm nhiễm sắc tố sắt mô, nhiễm aflatoxin (kèm với đột biến của gen P53), thiếu hụt men α1- antiprotease (α1- antitrypsin), và nhiễm tyrosin huyết. Biến thể lá xơ (fibrolamellar) của carcinoma tế bào gan gặp ở phụ nữ trẻ và được đặc trưng bằng bệnh cảnh mô học, không có các yếu tố nguy cơ, và diễn biến bệnh không đau.
Về mặt mô học, carcinoma tế bào gan được hình thành từ các dây hoặc dải tế bào đại khái giống nhu mô gan. Những mạch máu như tĩnh mạch cửa hoặc gan thường bị ảnh hưởng do khối u.
Sự hiện hữu của carcinoma tế bào gan có thể không còn nghi ngờ cho đến khi có sự xấu đi của tình trạng bệnh gặp ở bệnh nhân xơ gan đã ổn định trước đó. Suy mòn, yếu, và sụt cân là các triệu chứng đi kèm. Sự xuất hiện đột ngột của cổ trướng có thể có máu gợi ý huyết khối tĩnh mạch cửa hoặc gan do khối u hoặc chảy máu từ khối u hoại tử.
Khám thực thể có thể cho thấy gan to mềm, đôi khi có thể sờ thấy khối u. Ở châu Phi, những bệnh nhân trẻ điển hình có khối u ở bụng to nhanh. Nghe có thể phát hiện tiếng động trên khối u hoặc xương sườn khi khối u lan rộng đến bề mặt của gan.
Các xét nghiệm cận lâm sàng có thể thấy tăng bạch cầu, ngược với giảm bạch cầu thường gặp ở những bệnh nhân xơ gan. Hematocrit có thể bình thường hoặc tăng, bởi vì khối u tạo ra erythropoietin. Tăng đột ngột và dai dẳng phosphatase kiềm trong huyết thanh của bệnh nhân trước đó đã ổn định là dấu hiệu thường gặp. Kháng nguyên bề mặt viêm gan B thường có ở những trường hợp tử vong ở vùng dịch địa phương, còn ở Mỹ kháng HCV lại có ở tới 40% các trường hợp. Mức alpha fetoproteiri tăng ở 60% các bệnh nhân carcinoma tế bào gan. Xét nghiệm tế bào học của dịch cổ trướng hiếm khi thấy những tế bào ác tính.
Những biểu hiện của chụp động mạch là đặc trưng, phát hiện khối u “đỏ” phản ánh bản chất giàu mạch máu của khối u. Chụp cắt lớp vi tính có hoặc không có thuốc cản quang hoặc MRI xác đinh vị trí và mức độ giàu mạch máu của khối u. Cần sinh thiết gan để xác định chẩn đoán. Sự phân giai đoạn trong hệ phân loại TNM bao gồm : TO- không có bằng chứng của khối u nguyên phát; Tl- khối đơn độc ≤ 2cm)T2- khối u đơn độc < 2cm với sự xâm lấn mạch máu hoặc > 2 cm không có xâm lân mạch máu hoặc < 2cm và có nhiều ở một thùy; T3- khối u đơn độc > 2cm với sự xâm lấn mạch máu, hoặc < 2cm và đa khối u ở một thùy với bất kỳ khối u nào > 2cm có kèm theo hoặc không xâm lấn mạch máu; và T4- đa khối u ở nhiều hơn một thùy hoặc liên quan đến nhánh chính của tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch gan.
Những nỗ lực cắt bỏ bằng phẫu thuật thường thất bại nếu có xơ gan đồng phát và nếu khối u đa ổ. Phẫu thuật cắt bỏ carcinoma tế bào gan đơn độc có thể có hiệu quả nếu chức năng gan bình thường. Tỷ lệ sống sót chung sau 5 năm lên tới 56% ở những bệnh nhân bị bệnh khu trú có thể cắt bỏ (T1, T2, T3, một số trường hợp T4; NO; MO) nhưng thực sự lại bằng không cho những bệnh nhân bị bệnh quá phát hoặc khu trú nhưng không thể cắt bỏ. Ghép gan có thể là thích hợp cho những khối u nhỏ không thể cắt bỏ ở bệnh nhân có xơ gan tiến triển với tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên tới 75%. Hóa trị liệu không cho thấy có thể kéo dài được thời gian sống; nhưng hóa trị liệu gây nghẽn mạch qua động mạch gan có thể là điều trị tạm thời. Tiêm vào những khối u nhỏ (< 3 cm) bằng ethanol tuyệt đối có thể kéo dài thời gian sống và là cách điều trị thay thế hợp lý cho phẫu thuật cắt bỏ ở một số bệnh nhân.
Theo dõi sự phát triển của carcinoma tế bào gan nên được xem xét và tiến hành ở những vùng dịch HBV với xét nghiệm alpha tetoprotein và siêu âm đều đặn (mỗi 6 tháng). Ở Mỹ thử nghiệm với sự giám sát là lẻ tẻ và lợi ích không chắc chắn.