- Trang chủ
- Sách y học
- Thực hành chẩn đoán và điều trị
- Thực hành chẩn đoán và điều trị tai biến mạch não
Thực hành chẩn đoán và điều trị tai biến mạch não
Nghẽn mạch, hay thuyên tắc mạch, là tình trạng tắc nghẽn do một khối (thường là cục máu đông) trong động mạch não.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Là tổn thương một phần não do không được cung cấp đủ máu hoặc do rỉ máu qua vách mạch. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến các cảm giác, vận động hay chức năng có liên quan đến vùng não bị tổn thương.
Tai biến mạch máu não là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước phát triển. Riêng tại Hoa Kỳ, tai biến mạch máu não là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba, và là nguyên nhân hàng đầu
gây ra các di chứng khuyết tật kéo dài suốt đời. Theo ước tính, mỗi năm có khoảng 700.000 người Mỹ bị tai biến mạch máu não. Mặc dù được chăm sóc với những điều kiện y khoa hiện đại nhất, trong số này vẫn có đến 25% phải tử vong. Nếu tính chung những thiệt hại vật chất do tai biến mạch máu não gây ra cũng như những chi phí chăm sóc sức khỏe để đối phó với tình trạng bệnh này, mỗi năm Hoa Kỳ phải tiêu tốn đến hơn 40 tỷ đô-la!
Nhìn chung, khoảng 50% bệnh nhân bị tai biến mạch máu não có hy vọng hồi phục gần như hoàn toàn sau lần tai biến đầu tiên. Một số khác hồi phục chậm hơn. Đa số bệnh nhân bị liệt vẫn có khả năng tập đi trở lại. Có khoảng 5% trường hợp để lại di chứng tàn tật suốt đời và bệnh nhân cần được chăm sóc lâu dài.
Nguyên nhân
Như đã nói, tai biến mạch máu não xảy ra khi có sự thiếu máu ở một vùng não. Những nguyên nhân thường gặp gây ra tình trạng này là:
Máu đông: tắc nghẽn do cục máu đông tạo nên ở thành động mạch, do đó máu không thể được đưa đến để nuôi một vùng não nào đó. Khoảng 40
50% trường hợp tai biến mạch máu não là do nguyên nhân này.
Nghẽn mạch, hay thuyên tắc mạch, là tình trạng tắc nghẽn do một khối (thường là cục máu đông) trong động mạch não. Nguyên nhân này gây ra khoảng 30 – 35% trường hợp tai biến mạch máu não.
Xuất huyết não: do vỡ một mạch máu và chảy máu bên trong hoặc trên bề mặt não. Nguyên nhân này chiếm khoảng 20 – 25% các trường hợp tai biến mạch máu não, nhưng thường ảnh hưởng đến một vùng não rộng hơn, với những triệu chứng đột ngột và nghiêm trọng hơn, với tỷ lệ tử vong cũng cao hơn nhiều so với các nguyên nhân khác.
Những yếu tố nguy cơ có thể xem là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến các trường hợp tai biến mạch máu não là:
Cao huyết áp, làm suy yếu thành động mạch, tạo điều kiện cho mạch máu dễ dàng bị vỡ.
Xơ vữa động mạch, làm hẹp động mạch, tạo điều kiện cho các trường hợp tắc nghẽn dễ dàng xảy ra.
Các bệnh tim như rung nhĩ (một kiểu loạn nhịp tim), tổn thương van tim và nhồi máu cơ tim. Đây là các nguyên nhân tạo thành cục máu đông ở tim, rồi được di chuyển theo dòng máu đến não. Tại đây, khi động mạch đủ hẹp để cục máu bị giữ lại thì sự tắc nghẽn xảy ra.
Bệnh đa hồng cầu, tăng lipid máu, nghiện thuốc lá cũng là những nguyên nhân làm tăng nguy cơ tai biến mạch máu não, vì chúng làm trầm trọng hơn các bệnh cao huyết áp và xơ vữa động mạch.
Chẩn đoán
Các triệu chứng có thể xảy ra đột ngột và tiến triển rất nhanh, chỉ trong vài phút cho đến vài giờ, nhưng cũng có thể kéo dài đến vài ngày, tùy thuộc vào tính chất của tổn thương não.
Các triệu chứng có thể xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào vị trí, nguyên nhân và mức độ lan rộng của tổn thương. Các triệu chứng sau đây là thường gặp nhất:
Đau đầu.
Choáng váng.
Lú lẫn, giảm trí nhớ.
Rối loạn thị giác.
Nói khó hoặc không nói được.
Khó nuốt.
Các triệu chứng sau đây xuất hiện trong trường hợp nghiêm trọng:
Mất ý thức nhanh chóng.
Hôn mê.
Bệnh nhân có thể nhanh chóng tử vong hoặc bị các di chứng tàn tật không thể hồi phục về thể chất hoặc tâm thần.
Tai biến mạch máu não ở bán cầu não ưu thế (thường là bán cầu trái ở người thuận tay phải) có thể gây rối loạn ngôn ngữ, tiếng nói.
Tổn thương các vùng não điều khiển vận động ở bán cầu phải sẽ làm suy yếu hoặc liệt nửa người bên trái, và ngược lại. Liệt nhẹ một bên hoặc liệt nửa người là hậu quả của trường hợp tai biến mạch máu não nghiêm trọng.
Nếu các triệu chứng xảy ra nhanh và chỉ tồn tại không quá 24 giờ, sau đó hồi phục hoàn toàn, giai đoạn này được gọi là cơn thiếu máu tạm thời.
Chẩn đoán xác định cần chụp X quang cắt lớp não để loại trừ các trường hợp như u não, áp-xe não, viêm não hoặc xuất huyết dưới màng cứng.
Chọc tủy sống để chẩn đoán loại trừ viêm màng não.
Cần thực hiện các xét nghiệm để xác định nguyên nhân và mức độ lan rộng của tổn thương não:
Điện tâm đồ.
Xét nghiệm máu.
Chụp X quang ngực.
Chụp X quang mạch máu và chụp cộng hưởng từ.
Điều trị
Bệnh nhân mất ý thức hoặc trong trạng thái lơ mơ cần được làm thông đường thở, nuôi ăn bằng truyền tĩnh mạch hoặc đặt ống thông mũi dạ dày. Thay đổi tư thế bệnh nhân thường xuyên để tránh viêm phổi hoặc loét da.
Các trường hợp tai biến mạch máu não do thuyên tắc mạch, cho dùng thuốc chống đông máu hoặc làm tan cục máu đông.
Điều trị bằng aspirin trong nhiều trường hợp tỏ ra rất hiệu quả trong việc giảm thấp nguy cơ tái phát.
Các di chứng sau hồi phục như khả năng vận động và cảm giác có thể cần được điều trị bằng vật lý trị liệu. Những bệnh nhân rối loạn ngôn ngữ cần tập nói.
Các bệnh nhân có nhiều nguy cơ tái phát cần được điều trị tốt các bệnh lý như cao huyết áp, tiểu đường, tăng cholesterol trong máu, và nhất là nên khuyên bệnh nhân bỏ thuốc lá.
Bài viết cùng chuyên mục
Thực hành chẩn đoán và điều trị liệt dương
Tình trạng liệt dương thỉnh thoảng xảy ra ở một người đàn ông khỏe mạnh bình thường có thể là dấu hiệu của sự làm việc quá sức, thiếu nghỉ ngơi hoặc suy nhược cơ thể.
Thực hành chẩn đoán và điều trị chốc
Chốc phát triển ở vùng da quanh miệng thường rất dễ nhầm với các mụn rộp môi gây ra do virus Herpes simplex. Tuy nhiên, mụn rộp môi thường nhỏ hơn so với chốc.
Thực hành dụng cụ tránh thai đặt trong tử cung
Trong khoảng 6 tuần sau khi đặt vòng tránh thai, vẫn phải áp dụng thêm một biện pháp tránh thai khác để đảm bảo an toàn, vì hiệu quả tránh thai chưa được phát huy trong thời gian này.
Thực hành chẩn đoán và điều trị sốt sau sinh
Viêm nội mạc tử cung, thường kèm theo dịch thải có mùi hôi và đau bụng dưới, cần đưa vào bệnh viện để nạo tử cung và điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch.
Thực hành chẩn đoán và điều trị rong kinh
Thăm khám vùng chậu để phát hiện các nguyên nhân bệnh lý, chẳng hạn như u buồng trứng hay u tử cung... Có thể siêu âm vùng chậu nếu cần.
Thực hành chẩn đoán và điều trị nghẹt mũi
Ở người lớn thường có dấu hiệu khó thở khi ngủ, làm cho giấc ngủ bị gián đoạn vào ban đêm, khiến người bệnh thường ngủ nhiều vào ban ngày.
Bệnh học Raynaud và hiện tượng Raynaud
Bệnh Raynaud là một bệnh mạch máu. Khi người bệnh tiếp xúc với môi trường lạnh thì các mạch máu ở đầu ngón tay, ngón chân sẽ co thắt lại gây tím tái đầu ngón, nhất là các đầu ngón tay. Bệnh không rõ nguyên nhân, thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ.
Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh run
Các trường hợp không có nguyên nhân bệnh lý không cần điều trị. Để giảm cơn run tạm thời, có thể cho bệnh nhân uống một ít rượu hoặc thuốc chẹn beta.
Kiểm tra tiêm chủng cho trẻ em
Một số liều tiêm chủng gồm 2 mũi tiêm hoặc nhiều hơn, phải được tiêm đủ liều mới có thể phát huy tác dụng bảo vệ trẻ chống lại căn bệnh đó.
Thực hành chẩn đoán và điều trị Rubella
Bệnh rubella, hay rubeon, trước đây thường được xem như một dạng sởi nên vẫn gọi là bệnh sởi Đức (German measles), là một bệnh truyền nhiễm nhẹ, có thể gây ra những vùng ban đỏ và làm sưng phồng các hạch bạch huyết.
Thực hành liệu pháp thay thế hormon (HRT)
Việc sử dụng liệu pháp thay thế hormon, ngoài khả năng làm giảm nhẹ các triệu chứng của mãn kinh còn giúp ngăn ngừa các nguy cơ liên quan đến những rối loạn sau khi mãn kinh.
Thực hành chẩn đoán có thai
Sau khi có thai, người phụ nữ thường cảm thấy hai vú to dần lên, căng tức. Các hạt nhỏ ở quầng vú ngày một nổi rõ lên hơn như hạt tấm. Núm vú và quầng vú trước đây màu hồng.
Sử dụng màng ngăn âm đạo tránh thai
Trong trường hợp có giao hợp tiếp trong vòng 6 giờ, không cần lấy màng ngăn ra nhưng phải cho thêm thuốc diệt tinh trùng vào (ít nhất là 2 giờ trước khi giao hợp).
Khái niệm chung về biện pháp tránh thai tự nhiên
Ưu điểm chung của các biện pháp này là do không dùng thuốc cũng như không đưa bất kỳ dị vật nào vào cơ thể nên không có vấn đề chống chỉ định hoặc các phản ứng phụ liên quan đến sức khỏe và đời sống.
Thực hành những vấn đề khi cho con bú
Những vấn đề nảy sinh khi cho con bú thường không nghiêm trọng, nhưng lại có thể gây nhiều lo lắng hoặc căng thẳng về tâm lý, nhất là đối với những người mẹ trẻ mới có con lần đầu tiên.
Thực hành chẩn đoán và điều trị nhọt
Những người có hệ miễn dịch suy yếu, người bệnh tiểu đường, hoặc những người mà da có nhiều chất nhờn thường dễ bị nhọt hơn.
Thực hành chẩn đoán và điều trị liệt bell
Có thể rút ngắn thời gian hồi phục bằng cách cho dùng prednisolon 40mg mỗi ngày, liên tục trong 1 tuần, sau đó giảm liều thấp dần sao cho sau 3 tuần nữa thì không còn dùng thuốc.
Thực hành chẩn đoán và điều trị thiếu máu khi mang thai
Hầu hết các trường hợp thiếu máu nhẹ thường là do thiếu sắt (Fe) và được điều trị bằng Pregaday mỗi ngày một viên (chứa 100mg sắt nguyên tố và 350μg folat).
Thực hành chẩn đoán và điều trị protein niệu khi mang thai
Protein niệu trong thời kỳ thai nghén được xác định khi > 300mg/L. Chuyển chuyên khoa nếu chẩn đoán cho kết quả xác định.
Thực hành chẩn đoán và điều trị tiểu không tự chủ
Tiểu không tự chủ do thôi thúc thường xảy ra khi đang đi hoặc ngồi, nhưng thường nhất là bắt đầu khi thay đổi tư thế đột ngột.
Tránh thai bằng tính vòng kinh
Sau khi trứng rụng, thân nhiệt người phụ nữ tăng cao hơn bình thường khoảng 0,3 – 0,50C và duy trì sự gia tăng này cho đến khi bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp.
Những điều cần biết trước khi mang thai
Bổ sung các thức ăn giàu calci, nhất là đối với những phụ nữ có nguy cơ thiếu hụt cao, chẳng hạn như phụ nữ đã sinh nhiều con hoặc sống trong gia đình có chế độ ăn thường ngày nghèo dinh dưỡng.
Thực hành chẩn đoán và điều trị viêm mũi dị ứng
Tác nhân gây dị ứng không giống nhau ở mỗi người, nên việc người bệnh xác định được tác nhân gây dị ứng là rất quan trọng.
Thực hành chẩn đoán và điều trị đau bụng kinh
Các chất ức chế prostaglandin synthetase, chẳng hạn như acid mefenamic 250mg – 500mg, mỗi ngày 3 lần, hoặc naproxen 250mg – 500mg mỗi ngày 2 lần có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng.
Thực hành chẩn đoán và điều trị HIV, AIDS
Tiếp theo là giai đoạn toàn phát của bệnh AIDS, với đặc trưng là nguy cơ nhiễm trùng tăng cao bất thường do số lượng tế bào CD4 trong máu tiếp tục giảm thấp.
