- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Chức năng sinh dục nam bất thường
Chức năng sinh dục nam bất thường
Rối loạn chức năng cương dương, hay gọi là “bất lực”, đặc trưng bởi sự mất khả năng duy trì độ cương cứng của dương vật để thực hiện quá trình giao hợp phù hợp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tuyến tiền liệt và bất thường của nó
Tuyến tiền liệt vẫn còn tương đối nhỏ trong suốt thời thơ ấu, và phát triển ở tuổi dậy thì dưới sự kích thích của testosterone. Kích thước tuyến gần như ổn định trong thời gian từ năm 20 tuổi đến 50 tuổi. Sau đó ở một số nam giới nó trở nên thu nhỏ lại, cùng với sự suy giảm số lượng testosterone. U xơ tuyến tiền liệt có thể xảy ra bên trong tuyến ở nhiều người đàn ông lớn tuổi, có thể gây tắc nghẽn niệu quản. Sự phì đại này không phải do testosterone, thay vào đó là sự tăng sinh quá mức của tế bào tuyến.
Ung thư tiền liệt tuyến lại là một trường hợp khác dẫn đến sự tử vong của 2 đến 3 % nam giới. Một khi xảy ra ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào ung thư sẽ được kích thích phát triển nhanh chóng nhờ testosterone, và sẽ bị ức chế nếu cắt cả 2 tinh hoàn khiến testosterone không được tiết ra. Ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể bị ức chế bởi estrogen. Ngay cả một ung thư tuyến tiền liệt di căn hầu hết các xương cũng có thể điều trị thành công nhờ cắt 2 tinh hoàn, bằng liệu phát estrogen, hoặc cả hai cách. Sau khi điều trị, ổ di căn giảm kích thước và hồi phục một phần cấu trúc xương. Điều này không triệt tiêu toàn bộ ung thư, nhưng có thể làm chậm sự phát triển của nó, đồng thời giảm đau xương nghiêm trọng một cách đáng kể.
Thiểu năng sinh dục nam
Khi tinh hoàn của thai nhi mất chức năng thì không có bất kể đặc tính sinh dục nam nào được hình thành, thay vào đó thai sẽ phát triển các đặc tính sinh dục của nữ. Lý giải cho điều này là đặc tính sinh dục của thai là việc hình thành cơ quan sinh dục nữ nếu không có hormone sinh dục, bất kể thai nhi đó mang bộ NST là nam hay nữ. Nếu có sự xuất hiện testosterone thì đặc điểm sinh dục nữ sẽ bị thay thế và thể hiện ra đặc tính sinh dục nam.
Nếu một đứa trẻ nam bị mất tinh hoàn của mình trước tuổi dậy thì, như trường hợp các thái giám, thì người đó sẽ có cơ quan sinh dục nam giống trẻ con và các đặc tính sinh dục nhi tính khác trong suốt cuộc đời. Chiều cao một thái giám trưởng thành cao hơn so với người bình thường do đầu trên xương chậm kết nối, mặc dù xương của họ khá mỏng và cơ bắp cũng không rắn chắc như những đàn ông bình thường. Giọng nói giống trẻ con, và không có hói tóc trên đầu, sự phân bố lông nam tính trưởng thành trên mặt và những nơi khác cũng không xảy ra.
Nếu một người đàn ông mất tinh hoàn của mình sau tuổi dậy thì, thì một số đặc tính sinh dục thứ phát của người đó có thể quay trở lại trạng thái nhi tính, một số khác vẫn giữ được như một nam giới trưởng thành. Các cơ quan sinh dục thoái hóa nhẹ, tuy nhiên không đến mức giống trẻ con, phát âm chỉ hơi cao một chút. Tuy nhiên sẽ mất sự phát triển lông nam tính, giảm độ dày xương, và giảm cơ dương vật.
Cũng ở nam giới bị thiến, ham muốn tình dục suy giảm nhưng không biến mất. dựa trên các hoạt động tình dục đã thực hiện trước đó. Cương dương vẫn có thể xảy ra, mặc dù khó hơn trước, nhưng rất khó để xuất tinh được như trước, chủ yếu do cơ quan sinh tinh đã thoái hóa, và sự mất khả năng sản xuất testosterone theo mong muốn.
Một số trường hợp thiểu năng tinh dục do vùng dưới đồi hạn chế tiết ra GnRH do nguyên nhân di truyền. Tình trạng này thường gắn với suy giảm đồng thời khả năng nuôi dưỡng ở trung tâm vùng dưới đồi, thường gặp ở những người béo phì ăn quá nhiều. Do đó báo phì cũng đi kèm với tình trạng thiểu năng sinh dục. Tình trạng này được gọi là hội chứng adiposogenital, hộ chứng Fröhlich hay tình trạng suy tinh hoàn do vùng dưới đồi.
U tinh hoàn và dậy thì sớm
U tế bào Leydic là một trường hợp hiếm hoi, khối u này có thể sản xuất ra lượng testosterone gấp 100 lần bình thường. Nếu khối u này phát triển ở trẻ nhỏ, nó sẽ gây ra sự phát triển một cách nhanh chóng cơ bắp và xương, nhưng cũng đồng thời gây ra sự hóa xương sớm ở các sụn đầu xương, khiến chiều cao giảm đi đáng kể so với bình thường. U tế bào kẽ như vậy cũng gây hình thành cơ quan sinh dục nam cũng như các đặc tính sinh dục nam khác. Nếu khối u xảy ra ở nam giới trưởng thành rất khó để phát hiện, do các đặc tính sinh dục đã hoàn thiện hết.
Phổ biến hơn u tế bào Leydic là u tế bào mầm. Bởi tế bào mầm có khả năng biệt hóa thành bất kì loại tế bào nào khác, nên trong khối u có thể chứa nhiều loại mô, như mô của thai, tóc, rang, xương, da, tất cả được tìm thấy trong cùng khối u gọi là u quái. Những khối u này hầu như ít tiết ra hormone, nhưng nếu có nhiều tế bào rau thai phát triển trong khối u, nó sẽ tiết ra một lượng lớn hCG, gây tác dụng giống LH. Ngoài ra hormone estrogen cũng có thể được khối u tiết ra, gây hội chứng vú to ở nam giới.
Rối loạn chức năng cương dương ở nam giới
Rối loạn chức năng cương dương, hay gọi là “bất lực”, đặc trưng bởi sự mất khả năng duy trì độ cương cứng của dương vật để thực hiện quá trình giao hợp phù hợp. Một số nguyên nhân có thể kể đến, như vấn đề thần kinh, như chấn thương dây đối giao cảm sau phẫu thuật u tiền liệt tuyến, thiếu hụt testosterone, một số loại thuốc ( nicotin, rượu, một số thuốc chống trầm cảm…)
Ở nam giới trên 40 tuổi, rối loạn cương dương do vấn đề mạch máu phía dưới. Như đã thảo luận ở trên, đủ lưu lượng máu và sự hình thành oxit nitric cần thiết cho cương cứng dương vật. Bệnh mạch máu, có thể xáy ra do sự thiếu kiểm soát được tăng huyết áp, đái tháo đường hay xơ vữa động mạch, làm giảm lưu thông mạch máu. Hoặc giảm tiết NO khiến giảm giãn mạch.
Rối loạn chức năng cương dương do nguyên nhân mạch máu có thể điều trị thành công với phosphodiesterase-5 (PDE – 5), các chất ức chế như ildenafil (Viagra), vardenafil (Levitra), hay tadalafil (Cialis). Những loại thuốc này làm tăng cGMP ở các mô cương dương, do ức chế men phosphodiesterase 5, làm phân giải nhanh chóng cGMP. Như vậy, bằng cách ức chế sự thoái hóa của GMP vòng, các chất ức chế PDE-5 tăng cường và kéo dài hiệu quả của cGMP để gây kéo dài thời gian cương cứng.
Bài viết cùng chuyên mục
Đặc điểm sinh lý cấu tạo bộ máy tiêu hóa
Thiết đồ cắt ngang, ống tiêu hóa cấu tạo gồm 8 lớp từ trong ra ngoài: niêm mạc, cơ niêm, lớp dưới niêm mạc, đám rối Meissner, cơ vòng
Chức năng của progesterone
Progesteron cũng làm gia tăng chế tiết ở niêm mạc lót bên trong vòi Fallope. Những sự chế tiết này rất quan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng cho noãn tồn tại và phân chia khi nó di chuyển trong vòi Fallope trước khi làm tổ ở tử cung.
Điện tâm đồ: phân tích vector ở điện tâm đồ bình thường
Vì mặt ngoài của đỉnh tâm thất khử cực trước mặt trong, nên trong quá trình tái phân cực, tất cả các vector của tâm thất dương và hướng về phía đỉnh tim.
Đặc điểm của sự bài tiết ở dạ dày
Khi bị kích thích, các tế bào viền bài tiết dịch acid chứa khoảng 160mmol/L acid chlohydric, gần đẳng trương với dich của cơ thể. Độ pH của acid này vào khoảng 0.8 chứng tỏ tính rất acid của dịch.
Cơ chế đặc biệt để kiểm soát lưu lượng máu cấp tính trong những mô cụ thể
Mặc dù các cơ chế chung cho kiểm soát dòng máu đã được thảo luận áp dụng cho hầu hết các mô trong cơ thể nhưng vẫn có những cơ chế riêng cho một số vùng đặc biệt.
Đo điện thế màng tế bào
Để tạo ra một điện thế âm bên trong màng, chính các ion dương chỉ đủ phát triển lớp điện thế lưỡng cực ở màng phải được vận chuyển ra phía ngoài.
Chuyển động mắt theo đuổi: chú ý các đối tượng chuyển động
Nếu một đối tượng chuyển động lên xuống kiểu sóng với tốc độ vài lần mỗi giây, mắt đầu tiên có thể không chú ý vào nó. Tuy nhiên, sau một giây hoặc lâu hơn, mắt bắt đầu cử động bằng cách giật.
Kiểm soát lưu lượng mạch vành
Điều hòa lưu lượng máu. Lưu lượng máu trong động mạch vành thường được điều chỉnh gần như chính xác tương ứng với nhu cầu oxy của cơ tim.
Receptor: sự thích nghi và chức năng dự báo receptor tốc độ
Sự thích ứng của các loại thụ thể khác nhau cho thấy sự thích nghi nhanh chóng của một số thụ thể và sự thích ứng chậm của những thụ thể khác.
Vòng phản xạ thần kinh: với các tín hiệu đầu ra kích thích và ức chế
Các sợi đầu vào kích thích trực tiếp lên đường ra kích thích, nhưng nó kích thích một nơ-ron ức chế trung gian (nơron 2), là nơ-ron tiết ra một loại chất dẫn truyền thần kinh khác để ức chế đường ra thứ hai từ trạm thần kinh.
Sinh lý tiêu hóa ở miệng và thực quản
Nhai là hoạt động cơ học của miệng có tác dụng nghiền xé thức ăn và trộn đều thức ăn với nước bọt. Nhai là một động tác nửa tự động, có lúc nhai được thực hiện tự động nhưng có khi được thực hiện chủ động.
Loại dịch trong cơ thể người: đo bằng chỉ thị mầu
Dựa trên nguyên tắc bảo toàn vật chất, có nghĩa là tổng lượng vật chất sau khi hòa vào dịch bằng với tổng lượng vật chất trước khi được bơm vào.
Hoạt hóa và các receptor của hormone
Số lượng receptor tại các tế bào đích thường không hằng định, những receptor protein thường bị bất hoạt hoặc phá hủy trong quá trình chúng thực hiện chức năng.
Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em
Phát triển hành vì chủ yếu liên quan đến sự hoàn thiện của hệ thần kinh. Nó khó để phân biệt giữa hoàn thiện cấu trúc giải phẫu của hệ thống thần kinh hay do giáo dục.
Đại cương thân nhiệt cơ thể người
Tất cả các phản ứng tế bào, sinh hoá và enzyme đều phụ thuộc nhiệt độ. Vì thế, sự điều hoà thân nhiệt tối ưu là cần thiết cho các hoạt động sinh lý ở động vật hằng nhiệt.
Chuyển hóa của thai nhi
Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein, hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường. Những vẫn đề đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci, phosphate, sắt và một số vitamin.
Tác dụng ngoài nhân của Aldosterol và các hormon steroid khác
Tác động ngoài nhân này do gắn với steroid trên reeceptor màng tế bào mà được cùng với các hệ thống truyền tin thứ hai, tương tự như dùng truyền tín hiệu của hormon peptid.
Sự phát triển của điện thế hoạt động
Yếu tố nào đó làm tăng đôi chút điện thế màng từ -90mV hướng tới mức bằng không, điện thế tăng cao sẽ gây ra việc mở một số kênh natri có cổng điện thế.
Bài tiết acetylcholine hoặc noradrenalin của các sợi thần kinh giao cảm và phó giao cảm
Toàn bộ hoặc gần như toàn bộ các tận cùng thần kinh của hệ phó giao cảm đều tiết acetylcholin. Gần như tất cả các tận cùng thần kinh của hệ giao cảm đều tiết noradrenalin, tuy nhiên một vài sợi tiết ra acetylcholine.
Cung lượng tim: đánh giá bằng phương pháp chỉ thị mầu
Chất chỉ thị ngay sau đó chảy từ tim phải qua động mạch phổi, vào tâm nhĩ trái, cuối cùng là tâm thất trái, theo dòng máu vào tuần hoàn ngoại vi.
Điều hòa vận động: vai trò thoi cơ trong các vận động chủ động
Bất cứ khi nào phải thực hiện một động tác yêu cầu độ chính xác và tỉ mỉ, sự kích thích thích hợp từ cấu tạo lưới thân não lên các suốt cơ sẽ giúp duy trì tư thế của các khớp quan trọng, giúp thực hiện các động tác chi tiết một cách khéo léo.
Thể tích hô hấp trong một phút
Thể tích hô hấp mỗi phút trung bình 6lit/phút. Một người có thể sống với giai đoạn ngắn nhất là thể tích hô hấp mỗi phút thấp khoảng 1,5lit/phút và tốc độ hô hấp chỉ khoảng 2-4 nhịp/ phút.
Đám rối thần kinh cơ ruột và đám rối thần kinh dưới niêm mạc
Đám rối thần kinh cơ ruột không hoàn toàn có tác dụng kích thích vì một số neuron của nó có tác dụng ức chế; tận cùng của các sợi đó tiết ra một chất ức chế dẫn truyền, có thể là “polypeptide hoạt mạch ruột”.
Hệ thần kinh thực vật chi phối đường tiêu hóa
Sự kích thích hệ giao cảm sẽ ức chế hoạt động của đường tiêu hóa, đối lập với hệ phó giao cảm. Nó tác động theo 2 đường: tác dụng trực tiếp của norepinephrine và do norepinephrine.
Trao đổi canxi giữa xương và dịch ngoại bào
Một phần nhỏ dạng canxi dễ trao đổi này cũng là dạng canxi được tìm thấy trong tất cả các tế bào mô, đặc biệt là trong các tế bào có tính thấm cao như gan và đường tiêu hóa.
