Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được

2020-05-30 11:22 AM

Khi phế nang mở, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Ở người lớn, không thở chỉ trong 4 phút thường gây chết, nhưng trẻ sơ sinh thường sống sót kéo dài đến 10 phút mà không thở sau khi sinh. Não bị tổn thương vĩnh viễn và nghiêm trọng thường xảy ra ngay sau khi thở chậm hơn 8 đến 10 phút. Trên thực tế, những tổn thương thực sự phát triển chủ yếu ở vùng đồi thị, ở não sinh tư dưới, và một số phần khác của thân não, do đó ảnh hưởng vĩnh viễn đến nhiều chức năng vận động của cơ thể.

Sự giãn nở của phổi lúc sinh

Lúc sinh, thành các phế nang đầu tiên bị xẹp bởi vì sức căng bề mặt của dịch nhầy đổ đầy phế nang. Áp suất âm hít vào nhiều hơn 25 mmHg là cần thiết để chống lại tác động đối lập của sức căng bề mặt và để mở phế nang lần đầu tiên. Một khi phế nang mở, tuy nhiên, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.

Các đường cong thể tích áp suất của phổi

Hình. Các đường cong thể tích áp suất của phổi (đường cong tuân thủ chặt chẽ) của trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh, cho thấy các lực cực kỳ cần thiết để thở trong hai hơi thở đầu tiên của cuộc sống và phát triển đường cong tuân thủ gần như bình thường trong vòng 40 phút sau khi sinh.

Hình biểu thị cần áp lực âm rất lớn trong khoang màng phổi để mở phổi khi bắt đầu thở. Ở đỉnh của hình, đường cong thể tích-huyết áp (đường cong độ dãn nở) lúc thở lần đầu tiên sau khi sinh được biểu thị. Quan sát thấy, đầu tiên, phần thấp hơn của đường cong bắt đầu từ điểm áp lực 0 và di chuyển sang bên phải. Đường cong cho thấy rằng thể tích của khí trong phổi vẫn hầu như bằng 0 cho đến khi áp lực âm đạt đến -40cmH2O (-30mmHg).

Sau đó, khi áp lực âm tăng đến -60cmH2O, khoảng 40ml khí đi vào phổi . Để tháo hết khí trong phổi, một áp lực dương đáng kể, khoảng 40cmH2O, là cần thiết bởi vì sức cản của chất nhầy được tạo ra bởi dịch trong các tiểu phế quản.

Lưu ý rằng thở lần thức hai là dễ dàng hơn nhiều, cần ít áp lực âm và áp lực dượng hơn nhiều. Thở không hoàn toàn bình thường cho đến khoảng phút thứ 40 sau khi sinh, như được biểu thị bởi đường cong giãn nở thứ hai, hình dạng của chúng là thuận lợi hơn so với bình thường ở người lớn.

Hội chứng suy hô hấp gây ra khi thiếu bài tiết Surfactant

Một số nhỏ trẻ sơ sinh đặc biệt là trẻ sinh non và đứa trẻ có mẹ bị đái tháo đường, suy hô hấp nặng tiến triển trong ít giờ đến vài ngày đầu sau khi sinh, và một số trẻ chết chỉ trong một số ngày sau đó. Phế nang của những đứa trẻ chết chứa một lượng lớn dịch protein, hầu như các huyết tương tinh khiết bị rỉ từ các mao mạch vào phế nang. Tình trạng này còn được gọi là bệnh màng kính (hyaline membrane disease) bởi vì tiêu bản kính hiển vi của phổi thấy rằng các chất tràn vào các phế nang giống một màng hyaline.

Một đặc trưng tìm thấy ở hội chứng suy hô hấp là niêm mạc hô hấp bài tiết số lượng surfactant, một chất thông thường được bài tiết vào phế nang để làm giảm sức căng bề mặt của dịch phế nang, do vậy theo đó cho phép các phế nang mở ra dễ dàng khi hít vào . Các tế bào bài tiết surfactant (các tế

bào phế nang type II) không bắt đầu bài tiết surfactant cho đến 1-3 tháng kỳ thai nghén cuối cùng. Do đó, nhiều đứa bé sinh thiếu tháng và một ít đứa bé sinh đủ tháng sinh ra không có khả năng bài tiết đủ surfactant, chúng gây ra xẹp phế nang và phù phổi.

Bài viết cùng chuyên mục

Cung lượng tim: là tổng máu tuần hoàn qua mô phụ thuộc vào tuần hoàn ngoại vi

Tổng lưu lượng máu của tuần hoàn ngoại vi chính là tuần hoàn tĩnh mạch, và tim hoạt động một cách tự động để bơm máu quay trở lại tuần hoàn chung của cơ thể.

Lách: kho dự trữ hồng cầu

Trong mô lách, các mao mạch thì cho máu thấm qua, bao gồm các tế bào hồng cầu, máu rỉ ra từ các thành của mao mạch vào các mắt xích nằm ngang khớp nhau, tạo nên mô lách màu đỏ.

Dạng cao nguyên của điện thế hoạt động màng tế bào

Nguyên nhân của cao nguyên điện thế hoạt động màng tế bào là một sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đầu tiên, trong cơ tim, hai loại kênh tưởng niệm đến quá trình khử cực.

Hormone tăng trưởng (GH) điều khiển sự phát triển các mô cơ thể

Hormone tăng trưởng GH điều khiển làm tăng kích thước tế bào và tăng nguyên phân, cùng sự tăng sinh mạnh số lượng tế bào của các loại tế bào khác nhau như tạo cốt bào và các tế bào cơ còn non.

Tiêu hóa Carbohydrate sau khi ăn

Có 3 nguồn carbohydrate quan trọng là sucrose, disaccharide thường được biết như là đường mía, lactose, chúng là một disaccharide được tìm thấy trong sữa; và tinh bột.

Phospholipids và Cholesterol trong cơ thể

Phospholipid được chi phối bởi yếu tố điều hòa kiểm soát tổng thể quá trình chuyển hóa chất béo. Cholesterol có ở trong khẩu phần ăn bình thường và nó có thể được hấp thu chậm từ hệ thống ruột vào các bạch huyết ruột

Ngừng tim trong rối loan nhịp tim

Giảm oxy máu khiến cho sợi cơ tim và sợi dẫn truyền mất điện thế màng bình thường và tính dễ kích thích này làm cho nhịp tự động biến mất.

Cơ chế chung của sự co cơ

Acetylcholine hoạt động trên một khu vực cục bộ của màng sợi cơ để mở các kênh cation có “cổng acetylcholine” thông qua các phân tử protein lơ lửng trong màng.

Cơ chế phân tử của sự co cơ

Ở trạng thái co, các sợi actin này đã được kéo vào bên trong các sợi myosin, do đó hai đầu của chúng chồng lên nhau đến mức độ tối đa.

Hệ thống đệm hemoglobin cho PO2 ở mô

O2 có thể thay đổi đáng kể, từ 60 đến hơn 500 mm Hg, nhưng PO2 trong các mô ngoại vi không thay đổi nhiều hơn vài mmHg so với bình thường, điều này đã chứng minh rõ vai trò "đệm oxy" ở mô của hệ thống hemoglobin trong máu.

Kiểm soát nhiệt độ cơ thể bởi sự cân bằng giữa sinh nhiệt và mất nhiệt

Khi mức nhiệt sinh ra trong cơ thể cao hơn mức nhiệt mất đi, nhiệt sẽ tích lũy trong cơ thể và nhiệt độ của cơ thể tăng lên. Ngược lại, khi nhiệt mất đi nhiều hơn, cả nhiệt cơ thể và nhiệt độ của cơ thể đều giảm.

Thị lực: chức năng của thị giác

Thị lực người thường có thể phân biệt được 2 điểm các nhau khoảng 25 giây cung. Nghĩa là khi các tia sáng đi từ hai nguồn riêng đi đến mắt tạo một góc giữa chúng tối thiểu là 25 giây, chúng sẽ được xem là hai điểm riêng biệt.

Thích nghi của trẻ sơ sinh với cuộc sống ngoài tử cung

Sau khi đứa bé ra khỏi người mẹ không được gây mê, đứa bé thường bắt đầu thở trong vài giây và nhịp thở bình thường đạt được trong vòng 1 phút sau khi sinh.

Điều hòa hoạt động của tim bằng cơ chế thần kinh

Cơ chế điều hòa hoạt động tim thông qua phản xạ thần kinh và thể dịch, là yếu tố đặc biệt quan trọng để tăng cung lượng tim khi mạng ngoại vi giám, tăng tuần hoàn tĩnh mạch.

Chức năng dự báo của hệ thống ống bán khuyên để duy trì sự thăng bằng

Các ống bán khuyên dự đoán được trước rằng sự mất thăng bằng sắp xảy ra và do đó khiến các trung tâm giữ thăng bằng thực hiện sự điều chỉnh phù hợp từ trước, giúp người đó duy trì được thăng bằng.

Ba chuyển đạo lưỡng cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ

Một “chuyển đạo” không phải là một dây dẫn duy nhất kết nối từ cơ thể nhưng một sự kết hợp của hai dây dẫn và các điện cực của chúng tạo ra một mạch hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy ghi điện tim.

Dẫn truyền tín hiệu cường độ đau trong bó thần kinh: tổng hợp theo không gian và thời gian

Các mức khác nhau của cường độ có thể được truyền đi hoặc bằng việc sử dụng số lượng lớn hơn các sợi dẫn truyền song song hoặc bằng việc gửi đi nhiều điện thế hoạt động hơn dọc một theo sợi thần kinh.

Duy trì huyết áp động mạch bình thường: vai trò của hệ thống Renin-Angiotensin mặc dù có biến đổi lớn lượng muối vào

Hệ thống renin-angiotensin có lẽ là hệ thống mạnh mẽ nhất của cơ thể, làm thay đổi nhỏ huyết áp động mạch khi có lượng muối nhập vào dao động lớn.

Cơ chế tự điều hòa bơm máu của tim: cơ chế frank starling

Tìm hiểu với các điều kiện khác nhau, lượng máu tim bơm đi mỗi phút thông thường được xác định hầu hết qua tốc độn dòng máu qua tim từ tĩnh mạch, đó là các tĩnh mạch trở về.

Điều hòa vận động: vai trò của phản xạ gân

Các thụ thể ở gân cũng có đáp ứng động và đáp ứng tĩnh giống như suốt cơ, đáp ứng mạnh mẽ với sự thay đổi đột ngột trương lực cơ rồi ngay sau đó giảm xuống, đáp ứng một cách yếu hơn nhưng bền vững hơn để duy trì trạng thái trương lực cơ mới.

Đại cương sinh lý thận tiết niệu

Chức năng nội tiết: thận bài tiết ra các hormon để tham gia điều hòa huyết áp, kích thích sản sinh hồng cầu và góp phần vào chuyển hóa Calci

Cung lượng tim: đánh giá bằng phương pháp chỉ thị mầu

Chất chỉ thị ngay sau đó chảy từ tim phải qua động mạch phổi, vào tâm nhĩ trái, cuối cùng là tâm thất trái, theo dòng máu vào tuần hoàn ngoại vi.

Vòng phản xạ thần kinh: sự ổn định và mất ổn định

Hầu như tất cả các phần của não kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp với tất cả các phần khác, nó tạo ra một thách thức nghiêm trọng. Nếu phần đầu tiên kích thích phần thứ hai, phần thứ hai kích thích phần thứ ba, phần thứ ba đến phần thứ tư và cứ như vậy.

Loại dịch trong cơ thể người: đo bằng chỉ thị mầu

Dựa trên nguyên tắc bảo toàn vật chất, có nghĩa là tổng lượng vật chất sau khi hòa vào dịch bằng với tổng lượng vật chất trước khi được bơm vào.

Sự phát triển của điện thế hoạt động

Yếu tố nào đó làm tăng đôi chút điện thế màng từ -90mV hướng tới mức bằng không, điện thế tăng cao sẽ gây ra việc mở một số kênh natri có cổng điện thế.