- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được
Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được
Khi phế nang mở, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ở người lớn, không thở chỉ trong 4 phút thường gây chết, nhưng trẻ sơ sinh thường sống sót kéo dài đến 10 phút mà không thở sau khi sinh. Não bị tổn thương vĩnh viễn và nghiêm trọng thường xảy ra ngay sau khi thở chậm hơn 8 đến 10 phút. Trên thực tế, những tổn thương thực sự phát triển chủ yếu ở vùng đồi thị, ở não sinh tư dưới, và một số phần khác của thân não, do đó ảnh hưởng vĩnh viễn đến nhiều chức năng vận động của cơ thể.
Sự giãn nở của phổi lúc sinh
Lúc sinh, thành các phế nang đầu tiên bị xẹp bởi vì sức căng bề mặt của dịch nhầy đổ đầy phế nang. Áp suất âm hít vào nhiều hơn 25 mmHg là cần thiết để chống lại tác động đối lập của sức căng bề mặt và để mở phế nang lần đầu tiên. Một khi phế nang mở, tuy nhiên, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.
Hình. Các đường cong thể tích áp suất của phổi (đường cong tuân thủ chặt chẽ) của trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh, cho thấy các lực cực kỳ cần thiết để thở trong hai hơi thở đầu tiên của cuộc sống và phát triển đường cong tuân thủ gần như bình thường trong vòng 40 phút sau khi sinh.
Hình biểu thị cần áp lực âm rất lớn trong khoang màng phổi để mở phổi khi bắt đầu thở. Ở đỉnh của hình, đường cong thể tích-huyết áp (đường cong độ dãn nở) lúc thở lần đầu tiên sau khi sinh được biểu thị. Quan sát thấy, đầu tiên, phần thấp hơn của đường cong bắt đầu từ điểm áp lực 0 và di chuyển sang bên phải. Đường cong cho thấy rằng thể tích của khí trong phổi vẫn hầu như bằng 0 cho đến khi áp lực âm đạt đến -40cmH2O (-30mmHg).
Sau đó, khi áp lực âm tăng đến -60cmH2O, khoảng 40ml khí đi vào phổi . Để tháo hết khí trong phổi, một áp lực dương đáng kể, khoảng 40cmH2O, là cần thiết bởi vì sức cản của chất nhầy được tạo ra bởi dịch trong các tiểu phế quản.
Lưu ý rằng thở lần thức hai là dễ dàng hơn nhiều, cần ít áp lực âm và áp lực dượng hơn nhiều. Thở không hoàn toàn bình thường cho đến khoảng phút thứ 40 sau khi sinh, như được biểu thị bởi đường cong giãn nở thứ hai, hình dạng của chúng là thuận lợi hơn so với bình thường ở người lớn.
Hội chứng suy hô hấp gây ra khi thiếu bài tiết Surfactant
Một số nhỏ trẻ sơ sinh đặc biệt là trẻ sinh non và đứa trẻ có mẹ bị đái tháo đường, suy hô hấp nặng tiến triển trong ít giờ đến vài ngày đầu sau khi sinh, và một số trẻ chết chỉ trong một số ngày sau đó. Phế nang của những đứa trẻ chết chứa một lượng lớn dịch protein, hầu như các huyết tương tinh khiết bị rỉ từ các mao mạch vào phế nang. Tình trạng này còn được gọi là bệnh màng kính (hyaline membrane disease) bởi vì tiêu bản kính hiển vi của phổi thấy rằng các chất tràn vào các phế nang giống một màng hyaline.
Một đặc trưng tìm thấy ở hội chứng suy hô hấp là niêm mạc hô hấp bài tiết số lượng surfactant, một chất thông thường được bài tiết vào phế nang để làm giảm sức căng bề mặt của dịch phế nang, do vậy theo đó cho phép các phế nang mở ra dễ dàng khi hít vào . Các tế bào bài tiết surfactant (các tế
bào phế nang type II) không bắt đầu bài tiết surfactant cho đến 1-3 tháng kỳ thai nghén cuối cùng. Do đó, nhiều đứa bé sinh thiếu tháng và một ít đứa bé sinh đủ tháng sinh ra không có khả năng bài tiết đủ surfactant, chúng gây ra xẹp phế nang và phù phổi.
Bài viết cùng chuyên mục
Một số tác dụng của cortisol ngoài chuyển hóa và chống viêm và stress
Cortisol làm giảm số lượng bạch cầu ái toan và tế bào lympho trong máu; tác dụng này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi tiêm cortisol và rõ ràng trong vòng vài giờ.
Ức chế đối kháng: cung phản xạ đồi kháng
Phản xạ gấp mạnh hơn này gửi các thông tin ức chế đến chi ban đầu và làm giảm độ co cơ ở chi này, nếu ta loại bỏ kích thích ở chi gấp mạnh hơn, chi ban đầu lại trở về co cơ với cường độ như ban đầu.
Khả năng co giãn của mạch máu
Sự co giãn của mạch máu một cách bình thường được biểu diễn là một phân số của một sự gia tăng thể tích trên một mmHg sự tăng áp lực.
Ba nguồn năng lượng cho sự co cơ
Nguồn thứ nhất của năng lượng mà được sử dụng để tái lập ATP là chất phosphocreatine, cái mà mang một liên kết phosphate cao năng tương tự như liên kết của ATP.
Synap thần kinh trung ương: giải phẫu sinh lý của synap
Nhiều nghiên cứu về synap cho thấy chúng có nhiều hình dáng giải phẫu khác nhau, nhưng hầu hết chúng nhìn như là cái nút bấm hình tròn hoặc hình bầu dục, do đó, nó hay được gọi là: cúc tận cùng, nút synap, hay mụn synap.
Thể tích hô hấp trong một phút
Thể tích hô hấp mỗi phút trung bình 6lit/phút. Một người có thể sống với giai đoạn ngắn nhất là thể tích hô hấp mỗi phút thấp khoảng 1,5lit/phút và tốc độ hô hấp chỉ khoảng 2-4 nhịp/ phút.
Chu kỳ gan ruột của muối mật trong tiêu hóa và hấp thu chất béo
Khoảng 94% muối mật ở ruột non sẽ được tái hấp thu vào trong máu, khoảng một nửa số này sẽ được khuếch tán qua niêm mạc ruột non và phần còn lại được tái hấp thu thông qua quá tŕnh vận chuyển tích cực ở niêm mạc ruột.
Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị
Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.
Giải phẫu và sinh lý của cấp máu mạch vành
Hầu hết máu từ tĩnh mạch vành trái trở về tâm nhĩ phải thông qua xoang vành, chiếm 75%. Máu từ thất phải thông qua tĩnh mạch nhỏ chảy trực tiếp vào tâm nhĩ phải.
Block nhĩ thất hoàn toàn (block độ III): chặn đường truyền tín hiệu điện tim
Trong block độ III, không có mối liên quan giữa sóng P với phức bộ QRS vì thất đã “thoát” khỏi sự điển khiển của nhĩ và đang đập theo nhịp của chính nó.
Đặc điểm của sự co bóp cơ toàn bộ
Cơ co bóp được nói là đẳng trường khi cơ không bị rút ngắn trong suốt sự co bóp và là đẳng trương khi nó bị rút ngắn nhưng sức căng trên cơ vẫn không đổi trong suốt sự co bóp.
Sóng vận mạch huyết áp: dao động của hệ thống điều chỉnh phản xạ huyết áp
Khoảng thời gian cho mỗi chu kỳ là 26 giây đối với chó đã gây mê, 7-10 giây ở người không gây mê. Sóng này được gọi là sóng vận mạch hay sóng Mayer.
Chức năng thông khí hô hấp
Đường dẫn khí là một hệ thống ống, từ ngoài vào trong gồm có: mũi, họng, thanh quản, khí quản, phế quản, phế quản đi vào hai lá phổi.
Tự điều hòa lưu lượng máu não bảo vệ não trước sự dao động của huyết áp động mạch và vai trò hệ thần kinh giao cảm
Hệ tuần hoàn não nhận chi phổi giao cảm đi lên từ hạch giao cảm cổ trên ở vùng cổ, đi dọc theo các động mạch của não. Nó chi phối cả các động mạch lớn của não cũng như các động mạch xuyên sâu vào nhu mô não.
Các chức năng sinh lý của gan
Gan tổng hợp acid béo từ glucid, protid và từ các sản phẩm thoái hóa của lipid, acid béo được chuyển hóa theo chu trình.
Hệ thống thần kinh của ruột: chi phối thần kinh đường tiêu hóa
Mặc dù hệ thần kinh ruột có chức năng độc lập với hệ thần kinh ở bên ngoài, nhưng khi bị kích thích bởi hệ giao cảm và phó giao cảm có thể làm tăng hoặc giảm chức năng của ruột, điều này chúng ta sẽ thảo luận sau.
Nhịp nhanh thất: rối loạn nhịp tim
Nhịp nhanh thất thường gây ra bởi tổn thương thiếu máu cục bộ, nhịp nhanh thất cũng thường là vấn đề gây ra rung thất, bởi vì nhịp kích thích cơ tim lặp lại nhanh và liên tục.
Sự vận chuyển O2 trong máu và mô kẽ
Các loại khí có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách khuếch tán và nguyên nhân của sự vận chuyển này là sự chênh lệch về phân áp từ vị trí đầu tiên cho tới vị trí tiếp theo.
Tính chất hóa học của các hormone sinh dục
Cả estrogen và progesterone đều được vận chuyển trong máu nhờ albumin huyết tương và với các globulin gắn đặc hiệu. Sự liên kết giữa hai hormone này với protein huyết tương đủ lỏng lẻo để chúng nhanh chóng được hấp thu.
Trạm thần kinh: sự phân kỳ của các tín hiệu đi qua
Sự phân kỳ khuếch đại hiểu đơn giản là các tín hiệu đầu vào lan truyền đến một số lượng nơ-ron lớn hơn khi nó đi qua các cấp nơ-ron liên tiếp trong con đường của nó.
Chức năng tủy thượng thận: giải phóng adrenalin và noradrenalin
Adrenalin và noradrenalin trong vòng tuần hoàn có tác dụng gần như giống nhau trên các cơ quan khác nhau và giống tác dụng gây ra bởi sự kích thích trực tiếp hệ giao cảm.
Ba chuyển đạo lưỡng cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Một “chuyển đạo” không phải là một dây dẫn duy nhất kết nối từ cơ thể nhưng một sự kết hợp của hai dây dẫn và các điện cực của chúng tạo ra một mạch hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy ghi điện tim.
Chất dẫn truyền thần kinh: đặc điểm của nhóm phân tử nhỏ
Trong hầu hết các trường hợp, acetylcholine có tác dụng kích thích. Tuy nhiên, nó được biết là có tác dụng ức chế ở một số dây thần kinh đối giao cảm ngoại vi, chẳng hạn như ức chế trung tâm dây thần kinh phế vị.
Tỷ lệ thay đổi hô hấp: thương số hô hấp
Khi O2 phản ứng với chất béo, một phần lớn của O2 kết hợp với các nguyên tử H+ từ các chất béo để tạo thành H2O thay vì CO2. Nói cách khác, khi chất béo được chuyển hóa.
Vùng dưới đồi: cơ quan đầu não của hệ limbic
Vùng dưới đồi, mặc dù kích thước nhỏ, chỉ vài cm (nặng khoảng 4 gram), nhưng có 2 đường truyền tới tất cả cấu trúc của hệ limbic. Vùng dưới đồi và cấu trúc phụ liên quan gửi xung động đi ra theo 3 đường.