- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Hormone parathyroid (tuyến cận giáp)
Hormone parathyroid (tuyến cận giáp)
Tuyến cận giáp của con người trưởng thành, chứa chủ yếu là các tế bào chính và một số lượng nhỏ đến trung bình các tế bào oxyphil, nhưng tế bào oxyphil vắng mặt ở nhiều loài động vật cũng như ở người trẻ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hormone tuyến cận giáp cung cấp một cơ chế mạnh mẽ để kiểm soát nồng độ canxi và phosphate ngoại bào bằng cách điều tiết tái hấp thu ở ruột, bài tiết qua thận, và trao đổi giữa dịch ngoại bào và xương của các ion này. Hoạt động vượt quá của tuyến cận giáp gây ra giải phóng nhanh chóng của các muối canxi từ xương, với tăng calci huyết quả trong dịch ngoại bào; ngược lại, thiếu hụt chức năng của tuyến cận giáp gây giảm calci máu, thường gây nên cơn tetany.
Giải phẫu sinh lý của tuyến cận giáp
Thông thường có bốn tuyến cận giáp, nằm ngay phía sau tuyến giáp- ở mỗi cực trên và mỗi cực dưới của tuyến giáp. Mỗi tuyến cận giáp có chiều dài khoảng 6 mm, 3 mm rộng, và 2 mm dày và trông giống mô mỡ màu nâu sẫm. tuyến cận giáp khó có thể xác định vị trí trong các phẫu thuật tuyến giáp bởi vì chúng thường trông giống như chỉ là thùy nhỏ của tuyến giáp.
Vì lý do này, trước khi cắt toàn bộ hoặc bán phần tuyến giáp phải tách riêng các tuyến cận giáp ra.
Loại bỏ một nửa các tuyến cận giáp thường không gây ra sự bất thường về sinh lý, loại bỏ ba trong bốn tuyến bình thường gây ra hiện tượng suy tuyến cận giáp thoáng qua, nhưng kể cả chỉ còn 1 số lượng nhỏ của các mô tuyến cận giáp còn lại chúng vẫn có khả năng phì đại để đáp ứng như lúc ban đầu.

Hình: Bốn tuyến cận giáp nằm ngay đằng sau tuyến giáp. Hầu như tất cả các hormone tuyến cận giáp (PTH) được tổng hợp và tiết ra bởi các tế bào chính. Chức năng của các tế bào oxyphil chưa rõ, nhưng chúng có thể thay thế tế bào chính khi không còn khả năng tiết PTH.
Tuyến cận giáp của con người trưởng thành, chứa chủ yếu là các tế bào chính (chief cell) và một số lượng nhỏ đến trung bình các tế bào oxyphil, nhưng tế bào oxyphil vắng mặt ở nhiều loài động vật cũng như ở người trẻ. Thế bào chính được cho là tiết ra phần lớn, nếu không phải tất cả, của PTH. Chức năng của các tế bào oxyphil là không chắc chắn, nhưng các tế bào được cho là thay thế khi các tế bào chính không còn khả năng tiết ra hormone.

Hình. Ước lượng sự thay đổi nồng độ canxi và phosphate trong 5 giờ đầu truyền hormone tuyến cận giáp ở mức vừa phải.
Công thức hóa học của PTH
PTH đã phân lập được ở dạng tinh khiết. Nó được tổng hợp đầu tiên trên ribosome dưới hình thức preprohormone, một chuỗi polypeptide dài 110 axit amin.
Các mạng lưới nội chất và bộ máy golgi cắt preprohormone này thành một prohormone với 90 axit amin và cắt tiếp đến 84 axit amin, sau đó nó được đóng gói trong các túi tiết bên trong tế bào chất.
Hocmon hoàn chỉnh có trọng lượng phân tử khoảng 9500. Tiểu phần nhỏ hơn khoảng 34 axit amin tiếp giáp với đuôi N của phân tử cũng đã được phân tách từ tuyến cận giáp cũng có đầy đủ tác dụng tương tự như hocmon PTH. Thực tế, bởi vì thận nhanh chóng loại bỏ toàn bộ dạng hocmon chứa 84 axit amin trong vòng vài phút nhưng việc loại bỏ các mảnh còn lại của nó phải mất nhiều giờ ,do đó một phần tác dụng nội tiết được gây ra các mảnh còn lại này.
Bài viết cùng chuyên mục
Huyết áp: cơ chế cảm nhận và phản xạ để duy trì huyết áp bình thường
Đây là phản xạ được bắt đầu từ sự căng receptor, phân bố ở ở những vùng đặc biệt ở thành của một vài động mạch lớn. Sự tăng huyết áp làm căng receptor áp suất và gây ra sự dẫn truyền tín hiệu vào hệ thần kinh trung ương.
Chu chuyển của tim
Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.
Sinh lý hoạt động ức chế
Mỗi khi có một kích thích mới và lạ, tác động cùng một lúc với kích thích gây phản xạ có điều kiện, thì phản xạ có điều kiện đó không xuất hiện.
So sánh tế bào trong cơ thể người với những dạng sống dưới tế bào
Những chất hóa học bên cạnh acid nucleic và những protein đơn giản trở thành những phần của sinh vật, và những chức năng chuyên biệt bắt đầu phát triển ở nhiều phần khác nhau của virus.
Dẫn truyền thị giác: đường dẫn truyền từ hai võng mạc đến vỏ não thị giác
Đường dẫn thị giác có thể được chia sơ bộ thành một hệ thống cũ tới trung não và nền não trước và một hệ thống mới để truyền trực tiếp tín hiệu hình ảnh về vỏ não thị giác ở thùy chẩm.
Tiếng tim bình thường: nghe tim bằng ống nghe
Các vị trí để nghe tiếng tim không trực tiếp trên chính khu vực van của chúng. Khu vực của động mạch chủ là hướng lên dọc theo động mạch chủ, và khu vực của động mạch phổi là đi lên dọc theo động mạch phổi.
Shock điện khử rung thất: điều trị rối loạn nhịp tim
Dòng điện khử rung được đưa đến tim dưới dạng sóng hai pha. Dạng dẫn truyền này về căn bản giảm năng lượng cần thiết cho việc khử rung, và giảm nguy cơ bỏng và tổn thương cơ tim.
Synap thần kinh trung ương: synap hóa và synap điện
Sự dẫn truyền tín hiệu tại ở loại synap hóa học chỉ theo 1 chiều, từ sợi thần kinh tiết ra chất dẫn truyền (được gọi là sợi trước synap) đến sợi sau nó (được gọi là sợi sau synap).
Phosphocreatine: kho lưu trữ năng lượng và như bộ đệm ATP
Phosphocreatine không thể hoạt động như một tác nhân trực tiếp vận chuyển năng lượng từ thức ăn đến các tế bào hoạt động chức năng, nhưng nó có thể vận chuyển năng lượng thông qua quá trình chuyển đổi với ATP.
Lưu lượng của dòng bạch huyết của cơ thể
Bơm bạch huyết làm tăng dòng chảy bạch huyết. Van tồn tại trong tất cả các kênh bạch huyết. Van điển hình trong việc thu thập bạch huyết vào các mao mạch bạch huyết trống.
Vận chuyển và lưu trữ Amino Acids trong cơ thể
Sản phẩm của quá trình tiêu hóa protein và hấp thụ trong đường tiêu hóa gần như hoàn toàn là các amino acid; hiếm khi là các polypeptid hoặc toàn bộ phân tử protein được hấp thu quá hệ tiêu hóa vào máu.
Các yếu tố gây ra điện thế hoạt động
Sự khởi đầu của điện thế hoạt động cũng làm cho cổng điện thế của kênh kali mở chậm hơn một phần nhỏ của một phần nghìn giây sau khi các kênh natri mở.
Điện thế hoạt động của tế bào thần kinh
Để tạo ra những tín hiệu thần kinh, điện thế hoạt động di chuyển dọc theo tế bào sợi thần kinh cho tới điểm kếtthúc của nó.
Cơ chế Triglycerides giải phóng tạo năng lượng
Cân bằng ổn định giữa acid béo tự do và triglycerides thoái hóa thông qua triglycerides dự trữ, do đó, chỉ một lượng nhỏ acid béo có sẵn được dùng để tạo năng lượng.
Sự phát triển của buồng trứng
Khi buồng trứng phóng noãn (rụng trứng) và nếu sau đó trứng được thụ tinh, bước phân bào cuối cùng sẽ xảy ra. Một nửa số các nhiễm sắc thể chị em vẫn ở lại trong trứng thụ tinh và nửa còn lại được chuyển vào thể cực thứ hai, sau đó tiêu biến.
Những emzym tiêu hóa của tuyến tụy
Khi ban đầu được tổng hợp trong các tế bào tụy, những enzyme phân giải protein tồn tại ở trạng thái không hoạt động gồm trypsinogen, chymotrypsinogen và procarboxypolypeptidase.
Chức năng gan của trẻ sơ sinh
Bởi vì gan của trẻ sơ sinh thiếu hình thành các protein huyết tương, nồng độ protein huyết tương giảm trong những tuần đầu ít hơn trẻ lớn. Thỉnh thoảng nồng độ protein máu giảm đến mức thấp gây phù.
Tỉ lệ chuyển hoá trong cơ thể
Tỷ lệ chuyển hoá của cơ thể và những vấn đề liên quan, cần sử dụng một đơn vị để thống kê lượng năng lượng được giải phóng từ thức ăn hoặc được sử dụng cho các hoạt động chức năng.
Điều soát kích thước đồng tử của mắt
Vai trò của phản xạ ánh sáng là để giúp cho mắt đáp ứng ngay lập tức với sự thay đổi cường độ ánh sáng. Giới hạn của đường kính đồng tử vào khoảng 1.5 milimet ở trạng thái co nhỏ nhất và 8 milimet ở trạng thái giãn rộng nhất.
Hệ thống điều hòa của cơ thể
Nhiều hệ điều hòa có trong từng cơ quan nhất định để điều hòa hoạt động chức năngcủa chính cơ quan đó; các hệ thống điều hòa khác trong cơ thể lại kiểm soát mối liên hệ giữa các cơ quan với nhau.
Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước
Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.
Phức bộ QRS: hình dạng giãn rộng bất thường
Phức bộ QRS được xem là không bình thường khi kéo dài ít hơn 0,09s; khi nó giãn rộng trên 0,12s- tình trạng này chắc chắn gây ra bởi bệnh lý block ở 1 phần nào đó trong hệ thống dẫn truyền của tim.
Cấu trúc vi tuần hoàn và hệ mao mạch
Tại nơi mỗi mao mạch bắt nguồn từ một tiểu động mạch, chỉ còn một sợi cơ trơn thường vòng từng quãng quanh các mao mạch. Cấu trúc này được gọi là cơ thắt trước mao mạch.
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone protein và polypeptide, các steroid, dẫn xuất của amino acid tyrosin.
Các receptor ở các cơ quan đích hệ giao cảm và phó giao cảm
Các receptor nằm ở mặt ngoài của màng tế bào. Sự bám của các chất dẫn truyền thần kinh vào các receptor gây ra sư thay đổi về hình dạng trong cấu trúc của phân tử protein. Kế tiếp, phân tử protein bị biến đổi sẽ kích thích hoặc ức chế tế bào.
