- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Dịch cơ thể và muối trong tập luyện thể thao
Dịch cơ thể và muối trong tập luyện thể thao
Kinh nghiệm đã chứng minh vẫn còn vấn đề điện giải khác ngoài natri, là mất kali. Mất kali kết quả một phần từ sự tiết tăng aldosterone trong thích nghi với khí hậu nhiệt, làm tăng mất kali trong nước tiểu, cũng như mồ hôi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Giảm cân từ 5 - 10 pound (1 pound = 0,45359237 Kg) đã được ghi nhận ở các vận động viên trong một khoảng thời gian 1 giờ tập luyện liên tục với điều kiện nóng và ẩm ướt. Về cơ bản kết quả giảm cân này là từ mất mồ hôi. Mất đủ mồ hôi để giảm trọng lượng cơ thể chỉ có 3% có thể làm giảm đáng kể hiệu suất của một người, và 5 - 10 % giảm cân nhanh chóng thường có thể nghiêm trọng, dẫn đến đau cơ, buồn nôn, và những ảnh hưởng khác.
Vì vậy, là cần thiết để thay thế dịch khi bị mất.
Thay thế Natri clorua và kali. Mồ hôi có chứa một lượng lớn natri clorua,vì lý do này từ lâu đã cho rằng tất cả các vận động viên nên uống những viên muối (natri clorua) khi thực hiện tập luyện vào những ngày nóng và ẩm ướt.
Tuy nhiên, sử dụng quá nhiều viên muối cũng có hại. Hơn nữa, nếu một vận động viên thích nghi với nhiệt bằng cách tăng dần tiếp xúc với thể thao trong thời gian 1-2 tuần hơn là thực hiện những kỹ thuật thể thao khó nhất trong ngày đầu tiên, các tuyến mồ hôi cũng sẽ được thích nghi với khí hậu, do đó lượng muối bị mất từ mồ hôi chỉ có một phần nhỏ so với lượng mất trước khi quen với khí hậu. Kết quả của việc thích nghi với khí hậu của tuyến mồ hôi chủ yếu từ tăng aldosterone được tiết từ vỏ thượng thận. Các aldosterone lần lượt có tác động trực tiếp lên các tuyến mồ hôi, tăng tái hấp thu natri clorua khi mồ hôi dược tiết ra từ các ống tuyến mồ hôi trên bề mặt của da. Một khi các vận động viên thích nghi được với điều kiện khí hậu, bổ sung lượng muối rất nhỏ cần phải được xem xét trong các sự kiện thể thao.
Tập luyện và hạ natri máu (độ tập trung natri trong máu thấp) đôi khi có thể xảy ra sau khi gắng sức kéo dài.
Trong thực tế, hạ natri máu nặng có thể là một nguyên nhân tử vong quan trọng ở các vận động viên luyện tập kéo dài.
Như đã nêu, hạ natri máu nặng có thể gây phù nề mô, đặc biệt là trong não, có thể gây chết người. Ở những người đã trải qua hạ natri máu đe doa đến tính mạng sau khi tập thể dục nặng, nguyên nhân chính không phải chỉ đơn giản là sự mất natri do đổ mồ hôi; thay vào đó, hạ natri máu thường là do uống dịch nhược trương (uống nước hay đồ uống thể thao có nồng độ natri ít hơn 18 mmol / L) vượt quá khả năng thải trừ qua (?)mồ hôi, nước tiểu, và vô cảm (chủ yếu là đường hô hấp).Việc tiêu thụ dịch dư thừa này có thể thúc đẩy bởi khát mà còn có thể là do hành vi có điều kiện dựa trên những gợi ý để uống chất lỏng trong tập luyện tránh bị mất nước. Nguồn cung cấp nước dồi dào cũng thường có sẵn trong chạy marathon, cuộc thi 3 môn phối hợp, và các sự kiện thể thao bền bỉ khác.
Kinh nghiệm của các đơn vị quân sự khi tập luyện nặng trên sa mạc đã chứng minh vẫn còn vấn đề điện giải khác, là mất kali. Mất kali kết quả một phần từ sự tiết tăng aldosterone trong thích nghi với khí hậu nhiệt, làm tăng mất kali trong nước tiểu, cũng như trong những giọt mồ hôi. Như một hệ quả của những phát hiện này, một số các chất lỏng bổ sung trong môn điền kinh chứa một lượng cân đối nồng độ kali và natri, thường ở dạng các loại nước ép trái cây.
Bài viết cùng chuyên mục
Sinh lý cân bằng nước trong cơ thể
Sự mất nước thường xảy ra một thời gian ngắn trước khi cảm thấy khát. Trẻ em, người già, người mất trí có thể không nhận biết được cảm giác khát.
Cơ quan tiền đình: duy trì sự thăng bằng
Phần trên của hình biểu diễn mê đạo màng. Nó bao gồm phần lớn ốc tai màng (cochlea), 3 ống bán khuyên, 2 buồng lớn, soan nang (bầu tiền đình) và cầu nang (túi tiền đình).
Sản xuất bài tiết và hóa sinh các hormone sinh dục nam
Thuật ngữ androgen dùng để chỉ các hormone steroid nam giới, gồm testosterone, cũng bao gồm các hormone sinh dục nam khác được sản xuất ở các nơi khác của cơ thể, ngoài tinh hoàn.
Dịch lọc qua mao mạch: áp lực thủy tĩnh, áp lực keo huyết tương và hệ số lọc mao mạch
Áp lực thủy tĩnh có xu hướng để đẩy dịch và các chất hòa tan qua các lỗ mao mạch vào khoảng kẽ. Ngược lại, áp lực thẩm thấu có xu hướng gây ra thẩm thấu từ các khoảng kẽ vào máu.
Lượng sợi actin và myosin chồng lên nhau quyết định tăng lực co bóp khi co cơ
Toàn bộ cơ có một lượng lớn của mô liên kết ở trong nó; ngoài ra, các đơn vị co cơ trong các phần khác nhau của cơ không phải luôn luôn co bóp với cùng số lượng.
Kích thích cảm giác: sự phiên giải cường độ
Khi giải thích từng phần của những kết quả này, biểu diễn mối liên quan của điện thế nhận cảm tạo ra bởi tiểu thể Pacinian với cường độ của các kích thích cảm giác.
Chức năng của progesterone
Progesteron cũng làm gia tăng chế tiết ở niêm mạc lót bên trong vòi Fallope. Những sự chế tiết này rất quan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng cho noãn tồn tại và phân chia khi nó di chuyển trong vòi Fallope trước khi làm tổ ở tử cung.
Kiểm soát hoạt động của trung tâm hô hấp và các tín hiệu ức chế hít vào
Tính tới thời điểm này, đã biết về các cơ chế cơ bản tạo ra hiện tượng hít vào và thở ra, nhưng cũng rất cần tìm hiểu xem làm thế nào cường độ tín hiệu điều hòa có thể làm tăng hoặc giảm thông khí theo như cầu của cơ thể.
Các giai đoạn bài tiết ở dạ dày
Bài tiết ở dạ dày ở giai đoạn kích thích tâm lý diễn ra thậm chí trước khi thức ăn đi vào dạ dày, đặc biệt khi đang được ăn. Sự bài tiết này là kết quả của quá trình trước khi thức ăn vào miệng như nhìn, ngửi, nghĩ hoặc nếm thức ăn.
Giải phóng năng lượng cho cơ thể từ thực phẩm và năng lượng tự do
Năng lượng đòi hỏi cho hoạt động của cơ, sự bài tiết của các tuyến, duy trì điện thế màng ở sợi thần kinh và sợi cơ, sự tổng hợp vật chất trong tế bào, hấp thu thức ăn từ ống tiêu hóa và rất nhiều chức năng khác.
Tác dụng lên thận và tuần hoàn của Aldosterol
Aldosterol làm tăng tái hấp thu natri và đồng thời tăng bài tiết kali trong các tế bào chính của ống thận nhỏ nhưng cũng bài tiết ion hydro để trao đổi với kali vào trong tế bào vỏ ống góp.
Phức bộ QRS: hình dạng giãn rộng bất thường
Phức bộ QRS được xem là không bình thường khi kéo dài ít hơn 0,09s; khi nó giãn rộng trên 0,12s- tình trạng này chắc chắn gây ra bởi bệnh lý block ở 1 phần nào đó trong hệ thống dẫn truyền của tim.
Tác dụng feedback của hormon giáp làm giảm bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên
Để đạt được mức độ bài tiết lý tưởng, cơ chế feedback cụ thể tác dụng thông qua tuyến dưới đồi và thùy trước tuyến yên để kiểm soát tốc độ bài tiết của tuyến giáp.
Nhãn áp: sự điều tiết nhãn áp của mắt
Trong hầu hết các trường hợp của bệnh tăng nhãn áp, nguyên nhân chính gây nhãn áp cao bất thường là do tăng sức cản khi thoát thủy dịch qua khoảng trabecular vào kênh của Schlemm.
Vận chuyển thyroxine và triiodothyronine tới các mô
Hầu hết chu kỳ tiềm tàng và phát huy tác dụng của hormon có thể do gắn với protein cả trong huyết tương và trong tế bào mô, và bởi bài tiết chậm sau đó.
Sự hình thành thủy dịch từ thể mi của mắt
Thủy dịch luôn được tiết ra và tái hấp thu. Sự cân bằng giữa sự tiết ra và sự hấp thu quyết định thể tích của thủy dịch và áp suất nội nhãn cầu.
Tần số âm thanh: định nghĩa nguyên lý vị trí thính giác
Phương pháp chủ yếu để hệ thần kinh phát hiện ra các tần số âm thanh khác nhau là xác định vị trí trên màng nền nơi mà nó được kích thích nhiều nhất, nó được gọi là nguyên lý vị trí trong xác định tần số âm thanh.
Các con đường thần kinh từ vỏ não vận động
Tất cả nhân nền, thân não và tiểu não đều nhận các tín hiệu vận động mạnh mẽ từ hệ thống vỏ-tủy mỗi khi một tín hiệu được truyền xuống tủy sống để gây ra một cử động.
Dinh dưỡng cho phôi
Khi các tế bào lá nuôi phôi tràn vào màng rụng, tiêu hoá và hấp thu nó, các chất dinh dưỡng được lưu trữ trong màng rụng được phôi sử dụng cho sự sinh trưởng và phát triển.
Sự tiết estrogen của nhau thai
Estrogen chủ yếu gây ra một sự tăng sinh trên hầu hết các cơ quan sinh sản và liên quan đến người mẹ. Trong khi mang thai estrogen làm cho tử cung được mở rộng, phát triển vú và ống vú người mẹ, mở rộng cơ quan sinh dục ngoài.
Điều hòa lưu lượng máu bằng cách phát triển tuần hoàn bàng hệ
Sự mở các tuần hoàn bàng hệ sau đó trong vòng nhiều giờ kế tiếp, sao cho trong vòng 1 ngày, một nửa mô cần máu có thể được đáp ứng, và trong vòng 1 vài ngày dòng máu thường đủ để đến các mô.
Vận chuyển hormone trong máu
Các hormone tan trong nước được hòa tan vào huyết tương và được vận chuyển từ nơi chúng được tạo ra đến các mô đích, tại đó chúng sẽ khuếch tán khỏi lòng mao mạch, đi vào khoang dịch kẽ.
Vấn đề nội tiết ở trẻ sơ sinh
Thông thường, hệ nội tiết của trẻ sơ sinh thường rất phát triển lúc sinh, và đứa trẻ hiếm khi biểu hiện ngay bất cứ bất thường miễn dịch nào. Tuy nhiên, nội tiết của trẻ sơ sinh quan trọng trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Khoảng các từ vật tới mắt: xác định chiều sâu
Nếu ta đã biết một người nào đó cao 6 feet, ta có thể biết được người đó cách ta bao xa thông qua kích thước ảnh của người đó trên võng mạc.
Chức năng thính giác của vỏ não: cơ chế thính giác trung ương
Mỗi neuron riêng lẻ trong vỏ não thính giác đáp ứng hẹp hơn nhiều so với neuron trong ốc tai và nhân chuyển tiếp ở thân não. Màng nền gần nền ốc tai được kích thích bởi mọi tần số âm thanh, và trong nhân ốc tai dải âm thanh giống vậy được tìm thấy.
