- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Chức năng và ảnh hưởng của estrogen lên đặc tính sinh dục tiên phát và thứ phát
Chức năng và ảnh hưởng của estrogen lên đặc tính sinh dục tiên phát và thứ phát
Trong thời thơ ấu, estrogen chỉ được tiết với một lượng rất nhỏ, nhưng đến giai đoạn dậy thì, lượng estrogen được tiết ra dưới sự kích thích của hormone điều hòa tuyến sinh dục của tuyến yên tăng lên trên 20 lần.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chức năng cơ bản của estrogen là kích thích sự tăng sinh và phát triển tế bào ở các mô của bộ máy sinh dục và các mô khác liên quan đến chức năng sinh sản.
Ảnh hưởng của estrogen lên tử cung và bộ phận sinh dục ngoài
Trong thời thơ ấu, estrogen chỉ được tiết với một lượng rất nhỏ, nhưng đến giai đoạn dậy thì, lượng estrogen được tiết ra dưới sự kích thích của hormone điều hòa tuyến sinh dục của tuyến yên tăng lên trên 20 lần. Khí đó, cơ quan sinh dục nữ chuyển từ của trẻ em sang người trưởng thành. Buồng trứng, vòi trứng, tử cung và âm đạo cũng tăng kích thước lên nhiều lần.
Cùng với sự lớn lên của bộ phận sinh dục ngoài, cũng co sự phát triển của mỡ ở vùng mu và hai môi lớn và sự lớn lên của hai môi nhỏ.
Thêm vào đó, estrogen chuyển biểu mô âm đạo từ biểu mô trụ sang biểu mô lát- dạng này vững chắc hơn khi gặp chấn thương hay nhiễm khuẩn so với dạng biểu mô trụ trước tuổi dậy thì. Nhiễm trùng âm đạo ở trẻ em thường có thể chữa khỏi bằng liệu pháp estrogen đơn thuần vì sẽ làm bền vững biểu mô âm đạo.
Vài năm đầu sau giai đoạn dậy thì, kích thước tử cung tăng lên gấp 2 đến ba lần, nhưng quan trọng hơn việc tăng lên về kích thước tử cung là sự biến đổi ở lớp nội mạc tử cung dưới ảnh hưởng của estrogen. Estrogen đánh dấu sự tăng sinh của chất đệm nội mạc tử cung và sự tăng sinh mạnh mẽ của các tuyến nội mạc, các tuyến này sau này sẽ cung cấp chất dinh dưỡng cho trứng sau khi làm tổ.
Ảnh hưởng của estrogen lên vòi Fallope
Tác dụng của estrogen lên lớp niêm mạc lót của vòi Fallope tương tự tác dụng lên nội mạc tử cung. Chúng làm cho các mô hạch ở lớp niêm mạc tăng sinh; đặc biệt quan trọng, chúng làm tăng số lượng các tế bào lông chuyển ở niêm mạc. Hơn nữa, còn làm tăng hoạt động của các lông này. Những lông này luôn chuyển động về hướng tử cung giúp đẩy noãn đã thụ tinh đi theo hướng này.
Ảnh hưởng của estrogen lên vú
Ban đầu vú của trẻ nữ và nam hoàn toàn giống nhau. Thực tế, dưới tác động phù hợp của các hormone, vú của nam giới trong 20 năm đầu có thể phát triển đầy đủ và bài tiết sữa tương tự như nữ giới.
Estrogen kích thích (1) phát triển mô đệm của vú, (2) phát triển hệ thống chế tiết, và (3) lắng đọng mô mỡ ở vú. Các tiểu thùy và các túi chế tiết của vú phát triển chậm khi chỉ có sự tác động của estrogen, nhưng khi có mặt của progesterone và prolactin sẽ tạo ra sự phát triển toàn diện về cả cấu trúc và chức năng của những thành phần này.
Tóm lại, estrogen khởi động sự phát triển của vú và chức năng tạo sữa. Estrogen còn tác động đến đặc tính phát triển và sự xuất hiện của vú trưởng thành. (external appearance of the mature female breast). Tuy nhiên, estrogen không thể hoàn thành sự phát triển từ vú thành một cơ quan tiết sữa.
Ảnh hưởng của estrogen lên xương
Estrogen không những ức chế hoạt động hủy xương mà còn kích thích xương phát triển, ít nhất một phần của sự ảnh hưởng này là do sự kích thích của osteoprotegerin hay còn gọi là yếu tố ức chế hủy xương- một cytokine ức chế sự hủy hoại xương.
Trong giai đoạn dậy thì, khi người con gái bước vào tuổi sinh sản, chiều cao sẽ phát triển rất nhanh so với trước đây. Tuy nhiên, estrogen cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ khác đến sự phát triển xương: Estrogen kết hợp epiphysis with the sharp của những xương dài. Ảnh hưởng này của estrogen trên cơ thể phụ nữ mạnh mẽ hơn so với ảnh hưởng tương tự của testosterone ở nam giới. Do đó, sự phát triển của nữ giới thường kết thúc sớm hơn vài năm so với nam giới. Những người lưỡng giới nữ (eunuch) hay nói cách khác bị thiếu hụt hoàn toàn sự bài tiết estrogen thường thường cao hơn vài inches so với nữ giới bình thường bởi vì epiphyses kết hợp một cách bất thường.
Loãng xương gây ra bởi sự thiết hụt estrogen ở người cao tuổi
Sau mãn kinh, gần như không có một lượng estrogen nào được tiết ra ở buồng trứng. Sự thiếu hụt estrogen này dẫn đến hậu quả (1) tăng hoạt động hủy xương, (2) giảm khung liên kết của xương và (3) giảm lắng đọng calci và phosphate vào xương. Ở một số phụ nữ, những tác động này xảy ra rất mạnh, và hẫu quả là sự loãng xương. Bởi vì sự loãng xương có thể làm yếu xương và gây ra gãy xương, đặc biệt là gãy xương đốt sống. Một số phụ nữ tiền mãn kinh đã được điều trị dự phòng bằng estrogen thay thế để ngăn chặn những ảnh hưởng do loãng xương gây ra.
Estrogen làm tăng nhẹ sự lắng đọng protein
Estrogen làm tăng nhẹ lượng protein của cơ thể, bằng chứng là có sự cân bằng dương của Nito khi có mặt estrogen.
Ảnh hưởng này phần lớn thể hiện ở sự kích thích phát triển của estrogen lên bộ phận sinh dục, xương và một số mô cơ thể. Sự tăng lắng đọng protein gây ra bởi testosterone rộng hơn và mạnh hơn estrogen nhiều lần.
Estrogen làm tăng chuyển hóa và tăng lắng đọng chất béo
Estrogen làm tăng tỷ lệ trao đổi chất toàn cơ thể một chút, nhưng chỉ bằng khoảng một phần ba so với mức tăng gây ra bởi hormone sinh dục nam testosterone. Estrogen cũng gây ra sự lắng đọng lượng chất béo tăng lên trong các mô dưới da. Kết quả là, tỷ lệ mỡ cơ thể trong cơ thể phụ nữ lớn hơn đáng kể so với cơ thể nam giới, chứa nhiều protein. Ngoài việc lắng đọng chất béo ở vú và các mô dưới da, estrogen còn gây ra sự lắng đọng chất béo ở mông và đùi, đặc trưng của hình dáng nữ tính.
Estrogen có một chút ảnh hưởng lên sự mọc lông
Estrogen không gây nhiều ảnh hưởng lên sự phân bố lông.
Tuy nhiên, lông lại mọc ở những vị trí như mu và nách sau tuổi dậy thì. Androgen được tiết ra nhiều ở tuyến thượng thận sau giai đoạn dậy thì tác động nhiều đến sự phát triển này
Ảnh hưởng của estrogen lên da
Estrogen kích thích lên bề mặt da làm mặt da mềm và mịn hơn, hơn nữa, da người phụ nữ dày hơn da trẻ em hoặc da người đàn ông bị mất tinh hoàn. Estrogen còn làm tăng sinh mạch máu của da,thường liên quan tới việc da phụ nữ thường ấm hơn và chảy máu nhiều hơn khi bị rách bề mặt sơ với nam giới.
Ảnh hưởng của estrogen lên cân bằng điện giải
Cấu trúc hóa học của estrogen gần tương tự các hormone vỏ thượng thận đã được chú ý đến. Estrogen, giống như aldosterone và một số hormone vỏ thượng thận, làm tăng tái hấp thu ion natri và nước ở ống thận. Ảnh hưởng này của estrogen thường yếu và không rõ rệt. Tuy nhiên trong giai đoạn mang thai, một lượng lớn estrogen do rau thai tiết ra có thể ảnh hưởng lên sự tái hấp thu của ống thận.
Bài viết cùng chuyên mục
Trạm thần kinh: sự kéo dài tín hiệu thần kinh bằng trạm thần kinh “Sự kích ứng tồn lưu”
Khi các synap kích thích trên bề mặt của sợi nhánh hay thân của một nơ-ron, một điện thế sau synap tạo ra trong tế bào thần kinh và kéo dài trong nhiều mili giây, đặc biệt là khi có mặt một số chất dẫn truyền ở synap hoạt hóa kéo dài.
Ngoại tâm thu thất: rối loạn nhịp tim
Những người thường xuyên có ngoại tâm thu thất có nguy cơ cao hơn bị rung thất dẫn đến tử vong mà nguyên nhân là do một đợt ngoại tâm thu thất.
Áp lực thủy tĩnh mao mạch
Dịch đã được lọc vượt quá những gì được tái hấp thu trong hầu hết các mô được mang đi bởi mạch bạch huyết. Trong các mao mạch cầu thận, có một lượng rất lớn dịch.
Trí nhớ dài hạn của con người
Không có một ranh giới rõ ràng giữa loại kéo dài hơn của trí nhớ trung hạn và trí nhớ dài hạn thực sự. Sự khác biệt chỉ là một mức độ. Mặc dù, trí nhớ dài hạn thông thường được cho rằng là kết quả của sự thay đổi cấu trúc.
Sự khuếch tán chống lại quá trình vận chuyển tích cực
Mặc dù có nhiều sự khác biệt của những cơ chế cơ bản, khuếch tán có nghĩa là sự di chuyển ngẫu nhiên của phân tử chất, cũng có thể vượt qua khoảng giữa các phân tử hoặc kết hợp với protein mang.
Kiểm soát mạch máu bởi các ion và các yếu tố hóa học
Hầu hết các chất giãn mạch và co mạch đều có tác dụng nhỏ trên lưu lượng máu trừ khi chúng thay đổi tốc độ chuyển hóa của mô: trong hầu hết các trường hợp, lưu lượng máu tới mô và cung lượng tim không thay đổi.
Tần số âm thanh: định nghĩa nguyên lý vị trí thính giác
Phương pháp chủ yếu để hệ thần kinh phát hiện ra các tần số âm thanh khác nhau là xác định vị trí trên màng nền nơi mà nó được kích thích nhiều nhất, nó được gọi là nguyên lý vị trí trong xác định tần số âm thanh.
Kiểm soát sự tiết PTH thông qua nồng độ ion canxi
Giảm nồng độ ion canxi dịch ngoại bào ức chế con đường này,và kích thích bài tiết PTH quá trình này trái ngược với nhiều mô nội tiết, trong đó tiết hormone được kích thích khi những con đường được kích hoạt.
Trung tâm thần kinh điều khiển sự thèm ăn của cơ thể
Một số trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi tham gia vào kiểm soát sự ăn, nhân bên của vùng hạ đồi hoạt động như trung tâm nuôi dưỡng, và kích thích vào vùng này ở động vật gây ra chứng ăn vô độ.
Chức năng của não và giao tiếp - ngôn ngữ vào và ngôn ngữ ra
Dưới sự hỗ trợ của bản đồ giải phẫu đường đi thần kinh, chức năng của vỏ não trong giao tiếp. Từ đây chúng ta sé thấy nguyên tắc của phân tích cảm giác và điều khiển vận động được thực hiện như thế nào.
Dẫn truyền xung động từ tận cùng thần kinh tới sợi cơ vân: Khớp thần kinh cơ
Điện thế hoạt động bắt đầu lan truyền trong các sợi cơ vân bởi các xung thần kinh đi theo cả hai hướng về phía tận cùng sợi cơ.
Dược lý của hệ thần kinh tự chủ
Các thuốc có tác dụng gián tiếp lên hệ giao cảm tại vị trí các cơ quan đích của hệ giao cảm bị kích thích trực tiếp. Bao gồm các thuốc ephedrine, tyramine, và amphetamine.
Sự phát triển chưa hoàn thiện của trẻ sinh non
Hầu như tất cả hệ thống cơ quan là chưa hoàn thiện ở trẻ sinh non và cần phải chăm sóc đặc biệt nếu như đứa trẻ sinh non được cứu sống.
Chức năng của vùng hải mã: vùng kéo dài của vỏ não
Hải mã và các cấu trúc nằm cạnh thùy thái dương và thùy đỉnh, được gọi là khối hải mã liên kết chủ yếu gián tiếp với nhiều phần của vỏ não cũng như các cấu trúc cơ bản của hệ limbic – thể hạnh nhân, vùng dưới đồi, vách trong suốt và thể vú.
Sợi thần kinh: sự tương quan về trạng thái
Một số tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương hoạt động liên tục vì ngay cả trạng thái kích thích bình thường cũng trên ngưỡng cho phép.
Sinh lý tuần hoàn địa phương (mạch vành, não, phổi)
Động mạch vành xuất phát từ động mạch chủ, ngay trên van bán nguyệt. Động mạch vành đến tim, chia thành động mạch vành phải và trái. Động mạch vành trái cung cấp máu cho vùng trước thất trái và nhĩ trái.
TSH của thùy trước tuyến yên được điều hòa bởi TRH từ vùng dưới đồi
Sự bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên được kiểm soát bởi hormon vùng dưới đồi, thyrotropin releasing hormone, được bài tiết từ tận cùng thần kinh ở vùng lồi giữa vùng dưới đồi.
Lưu lượng máu mạch vành bình thường
Lưu lượng mạch vành trái giảm trong thời kì tâm thu, khác với lại các mạch khác trong cơ thể. Bởi vì trong thời kì tâm thu, mạch vành bị nén lại mạnh mẽ tho co cơ tim của thất trái.
Aldosterol kích tích vận chuyển Natri và Kali vào trong các tế bào tuyến
Aldosterol kích tích vận chuyển Natri và Kali vào trong các tế bào tuyến mồ hôi, tuyến nước bọt và tế bào biểu mô ruột.
Sự kích thích bài tiết acid dạ dày
Khi thức ăn có chứa protein tới vùng tận cùng hang vị, một vài protein từ thức ăn tác động kích thích tế bào tiết gastrin của tuyến môn vị gây nên sự giải phóng Gastrin vào máu để sau đó được vận chuyển đến các tế bào ECL ở dạ dày.
Giải phóng năng lượng cho cơ thể bằng con đường kỵ khí - Đường phân kỵ khí
Lactic acid được tổng hợp trong quá trình đường phân kỵ khí không mất đi khỏi cơ thể bởi vì khi oxy đầy đủ trở lại, lactic acid có thể chuyền về thành glucose hoặc được sử dụng chính xác để giải phóng năng lượng.
Ảnh hưởng của tập luyện thể thao trên cơ và hiệu suất cơ
Ở tuổi già, nhiều người trở nên ít vận động do đó cơ của họ teo rất nhiều. Trong những trường hợp này, tuy nhiên, tập luyện cho cơ có thể tăng sức mạnh cơ bắp hơn 100 %.
Sóng T trên điện tâm đồ: những bất thường khử cực
Khi thiếu máu xảy ra ở 1 phần của tim, quá trình khử cực của vùng đó giảm không tương xứng với khử cực ở các vùng khác. Hệ quả là sự thay đổi của sóng T.
Tuần hoàn phổi: giải phẫu sinh lý tuần hoàn mạch máu và bạch huyết
Động mạch phổi có thành dày bằng 1/3 của động mạch chủ. Các nhánh động mạch phổi ngắn và tất cả các động mạch phổi, thậm chí nhỏ hơn động mạch nhánh và tiểu động mạch, có đường kính lớn hơn động mạch toàn thân tương ứng.
Glycogen được dự trữ tại gan và cơ trong cơ thể
Tất cả các tế bào đều có khả năng dự trữ glycogen, một số tế bào có khả năng dự trữ số lượng lớn hơn, tế bào gan dự trữ 5 đến 8% khối lượng dưới dạng glycogen, và tế bào cơ, có thể dự trữ 1 đến 3% glycogen.
