- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết
- Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân
Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân
Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh động mạch. Tỷ lệ bệnh này tăng cùng với tuổi; dù rằng biểu hiện của bệnh có thể xuất hiện ở tuổi tứ tuần, nhưng khị trên 40 tuổi (đặc biệt nam giới) hầu hết thường bị nhiễm bệnh. Yếu tố nguy cơ gồm tăng cholerterol máu, đái tháo đường, hút thuốc lá và tăng huyết áp. Xơ vữa động mạch có xu hướng là một bệnh toàn thân với mức độ nào đó bao gồm tất cả các động mạch lớn, nhưng nó chỉ biểu hiện trên lâm sàng, khi tác động nặng nề vào một số hạn chế các động mạch. Hẹp và tắc lòng động mạch là biểu hiện thường gặp nhất của bệnh, nhưng thành động mạch suy yếu do mất elastin và collagen, kết quả làm giãn phình mạch cũng biểu hiện, và cả hai hậu quả này có thể biểu hiện trên cùng một cá thể. Các bệnh động mạch ít gặp hơn bao gồm viêm động mạch (cả động mạch lớn và nhỏ), viêm mạch tạo huyết khối nghẽn (bệnh Buerger), loạn sản xơ của động mạch nội tạng, viêm động mạch chủ do giang mai, và viêm động mạch lan toả.
Tắc động mạch dưới cẳng chân và bàn chân, theo thứ tự tỷ lệ gặp của bệnh có thể bao gồm động mạch chày và động mạch mác chung, mạch bàn chân, và có khi những nhánh chẽ nhỏ. Triệu chứng phụ thuộc vào độ hẹp hoặc huyết khối, tắc đột ngột và độ rộng chỗ tắc, và tình trạng mạch gốc và bàng hệ. Bức tranh lâm sàng có thể khó ổn định, tiến triển chậm qua hàng tháng, hàng năm, có thể cuối cùng gây teo, đau do thiếu máu cục bộ và có hoại tử.
Triệu chứng và dấu hiệu
Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.
Khập khiễng cách hồi là triệu chứng biểu hiện nhiều nhất. Mỏi, đau nhức trong gắng sức thường xuất hiện đẩu tiên ở cơ bắp chân. Ít gặp hơn là đau ở bàn chân.
Khoảng cách bệnh nhân có thể đi bộ trước khi xuất hiện cơn đau chỉ ra mức độ thiệu hụt tuần hoàn: 2 chặng (360 - 460 mét) là nhẹ, 1 chặng là trung bình, nửa chặng hoặc ít hơn là nặng. Đau khi nghỉ ngơi có thể xuất hiện ban đêm và đau liên tục, âm ỉ. Như trong trường hợp tắc mạch khoeo và đùi, đau lúc nghỉ chỉ ra là bệnh nặng. Có thể làm giảm mức độ đau bằng cách để chân trần và đặt chân cao hơn mặt giường.
Khi khám, dù mạch khoeo có thể có, nhưng mạch mu chân hai bên thường mất. Gắng sức có thể làm mạch mu chân mất đi ở vài bệnh nhân. Màu đỏ trên da là nổi bật, ngoài ra còn thấy da lạnh, teo và rụng lông. Những dấu hiệu này không thể phân biệt được với tắc ở phần cao hơn của chân, Có mạch khoeo chứng tỏ rằng tắc ở đoạn xa hơn khi có những triệu chứng và dấu hiệu này.
Ghi hình ảnh
Phim của phần thấp cẳng chân và bàn chân có thể thấy calci hóa ở mạch. Nếu có một xoang có ống dẫn lưu hoặc một ổ loét kín ở xương hoặc khớp thì viêm tủy xương có thể thấy trên phim. Nếu sờ mạch khoeo rõ, chụp mạch ít có giá trị. Siêu âm Doppler đưa ra một đánh giá chính xác áp lực ở mạch mu chân.
Điều trị nội khoa
Aspirin liều thấp (80 - 325 mg một ngày) là thuốc chống ngưng kết tiểu cầu, nó có giá trị lý thuyết và không gây hại; nó cũng nên dùng cho tất cả những bệnh có tắc mạch ngoại vi nặng nề. Pentoxityllin (400mg, 3 lần/ngày), có thể có ích ở bệnh nhân có triệu chứng mạn tính.
Điều trị thiểu năng tuần hoàn ở bàn chân và ngón
Cắt thần kinh giao cảm đoạn thắt lưng có thể chỉ định khi có thiếu máu cục bộ hoặc tiền hoại thư ở đoạn tận bàn chân hoặc khi có những vết loét nhỏ ở bàn chân. Không có sự thay đổi tuần hoàn đến cơ và vì vậy không có khập khiễng. Bệnh nhân không thể phẫu thuật có thể cân nhắc đến thủ thuật cắt bỏ thần kinh giao cảm hóa học bằng phenol 6%. Các thuốc giãn mạch không có giá trị hoặc ít. Chăm sóc chung bàn chân là quan trọng.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh raynaud và hiện tượng raynaud
Bệnh Raynaud hoặc hiện tượng Raynaud có tính chất xuất hiện từng đợt trắng hoặc tím hoặc trắng sau đó là tím ở ngón tay (hiếm khi ngón chân), xuất hiện khi lạnh hoặc khi xúc động.
Tắc nghẽn động mạch cấp
Ở chân, triệu chứng đầu tiên thường là đau, tê cóng, lạnh và đau nhói. Không bắt được mạch ở động mạch bị tắc, lạnh, có những đốm hoặc xanh, giảm hoặc mất cảm giác và yếu, co thắt cơ, hoặc liệt.
Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch
Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.
Tím và đỏ đau đầu chi
Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương.
Bệnh xơ vữa động mạch có tắc
Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.
Giãn tĩnh mạch
Giãn, nổi chằng chịt, kéo dài tĩnh mạch dưới da ở đùi và chân nói chung nhìn thấy rõ khi đứng, tuy nhiên ở bệnh nhân béo phì có thể cần thiết phải sờ để phát hiện biểu hiện và vị trí.
Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính
Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.
Viêm mạch huyết khối tắc nghẽn: bệnh buerger
Bệnh Buerger là một quá trình từng đợt từng đoạn bị nhiễm khuẩn và huyết khối ở động mạch và tĩnh mạch, chủ yếu ở chân. Nguyên nhân chưa được biết.
Thiểu năng động mạch nội tạng
Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.
Tắc động mạch huyết khối cấp
Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.
Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết
Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.
Phình động mạch chủ bụng
Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.
Hạ huyết áp và sốc
Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.
Phù bạch huyết
Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.
Phình tách động mạch chủ
Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.
Mạng xanh tím hình lưới trên da
Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.
Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ
Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.
Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol
Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.
Phình động mạch chủ ngực
Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.
Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường
Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.
Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông
Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.
Tắc động mạch đùi khoeo
Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.
Tắc tĩnh mạch chủ trên
Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.
Phình động mạch ngoại vi
Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.
Tắc động mạch chủ và động mạch chậu
Tắc động mạch chủ và động mạch chậu thường gặp từ đoạn gốc đến chỗ phân nhánh của động mạch chậu gốc và ở đoạn tận đến chỗ phân nhánh động mạch chủ.