Phù bạch huyết

2016-11-08 08:07 PM

Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Điểm chính trong chẩn đoán

Phù không đau ở một hoặc hai chân, nguyên phát ở phụ nữ trẻ.

Đầu tiên, phù ấn lõm, sau trở nên cứng và thường về sau không lõm.

Loét, giãn tĩnh mạch và mảng sắc tố ứ trệ không có. Có thể có viêm mạch bạch huyết và viêm mô tế bào.

Nhận định chung

Cơ chế chính của phù bạch huyết là suy giảm dòng bạch huyết từ chi trở về. Khi do những bất thường về phát triển bẩm sinh bao gồm tăng sản hoặc thiểu sản của hệ bạch huyết đoạn gốc hoặc đoạn tận; được cho là thể nguyên phát.

Tắc nghẽn có thể ở các ống bạch huyết chậu hoặc thắt lưng hoặc ở hạch khi bệnh lan rộng và tiến triển. Kiểu thứ phát là do khi viêm nhiễm hoặc tắc nghẽn cơ học của hệ bạch huyết do khối u, cắt bỏ ở vùng hạch bạch huyết hoặc chiếu tia xạ, hoặc lan rộng của một bệnh ác tính vào vùng hạch hoặc bệnh giun chỉ. Giãn thứ phát của hệ bạch hụyết ở cả 2 kiểu dẫn tới thiếu hụt hệ thống van, làm phá vỡ các dòng chảy cũ dọc theo mạch bạch huyết, và gây ra tiến triển ứ trệ của các dung dịch giàu protein với sự xơ hóa thứ phát. Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.

Chụp bạch mạch và xét nghiệm đồng vị phóng xạ thường sử dụng để phát hiện thiếu hụt hệ bạch huyết đặc hiệu.

Điều trị

Điều trị phù bạch huyết thường không thành công. Chủ yếu là điều trị bảo tồn cho bệnh nhân bằng một số biện pháp sau: (1) Tạo dòng chảy bạch huyết từ chi về, và kết quả là giảm mức độ ứ trệ, có thể nâng chân cao từng lúc, đặc biệt là trong giờ ngủ (chân được đặt cao lên gối 15 - 20 độ so với mặt giường, dùng liên tục băng chun hoặc tất ép và xoa bóp dọc theo chân bằng tay hoặc dùng dụng cụ bằng áp lực khí thiết kế để rút phù ra khỏi chi (dụng cụ bơm của Wright có vòng áp lực liên tục có tác dụng rút dịch ra ngoài bàn chân và chân và rồi ra khỏi đùi). (2) Viêm mô tế bào thứ phát ở chân nên tránh bằng cách giữ vệ sinh tốt và điều trị bệnh nấm trichophyton ở ngón chân. Một khi có nhiễm khuẩn, nên điều trị bằng bố trí những thời gian nghỉ ngơi thích hợp, nâng cao chân, và kháng sinh, dùng loại chống cả tụ cầu và liên cầu. Nhiễm trùng nặng và tái phát thường là khó điều trị. Kháng sinh dự phòng ngắt quãng có thể là cần thiết; dicloxacillin là cách lựa chọn tốt. (3) Điều trị lợi tiểu ngắt quãng, đặc biệt là bệnh nhân trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc bệnh tiến triển nặng theo từng đợt: (4) Trong các trường hợp được lựa chọn kỹ càng, có những qui trình phẫu thuật có thể có kết quả cải thiện chức năng tốt. Dùng vi phẫu thuật để nối tĩnh mạch và mạch bạch huyết đã có những kết quả về chức năng và thẩm mỹ tốt, đặc biệt là các đường dẫn bạch huyết có thể được định vị bằng biểu đồ nhấp nháy đường bạch huyết và tạo ra một số miệng nối giữa tĩnh mạch và mạch bạch huyết. Kỹ thuật này có thể thay thế cho các cách làm mà ngày càng không có kết quả và những cách làm nhằm mục đích tạo cầu nối các mạch bạch huyết hoặc nối bạch huyết - tĩnh mạch, cắt cụt chỉ coi như giải pháp cuối cùng trong các trường hợp rất nặng hoặc khi ung thư mạch bạch huyết ở chân.

Bài viết cùng chuyên mục

Hạ huyết áp và sốc

Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.

Tắc tĩnh mạch chủ trên

Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.

Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính

Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông

Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch sâu

Tiền sử bị suy tim ứ trệ, mới phẫu thuật, khối u, dùng thuốc tránh thai đường uống, hoặc giãn tĩnh mạch; không hoạt động kéo dài cũng có thể là tiền tố bị bệnh.

Giãn tĩnh mạch

Giãn, nổi chằng chịt, kéo dài tĩnh mạch dưới da ở đùi và chân nói chung nhìn thấy rõ khi đứng, tuy nhiên ở bệnh nhân béo phì có thể cần thiết phải sờ để phát hiện biểu hiện và vị trí.

Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.

Tím và đỏ đau đầu chi

Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương.

Mạng xanh tím hình lưới trên da

Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.

Bệnh raynaud và hiện tượng raynaud

Bệnh Raynaud hoặc hiện tượng Raynaud có tính chất xuất hiện từng đợt trắng hoặc tím hoặc trắng sau đó là tím ở ngón tay (hiếm khi ngón chân), xuất hiện khi lạnh hoặc khi xúc động.

Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol

Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.

Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch

Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Viêm mạch huyết khối tắc nghẽn: bệnh buerger

Bệnh Buerger là một quá trình từng đợt từng đoạn bị nhiễm khuẩn và huyết khối ở động mạch và tĩnh mạch, chủ yếu ở chân. Nguyên nhân chưa được biết.

Tắc động mạch huyết khối cấp

Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.

Tắc nghẽn động mạch cấp

Ở chân, triệu chứng đầu tiên thường là đau, tê cóng, lạnh và đau nhói. Không bắt được mạch ở động mạch bị tắc, lạnh, có những đốm hoặc xanh, giảm hoặc mất cảm giác và yếu, co thắt cơ, hoặc liệt.

Thiểu năng động mạch nội tạng

Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.

Tắc mạch não

Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ.

Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.

Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân

Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.

Tắc động mạch đùi khoeo

Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu thường gặp từ đoạn gốc đến chỗ phân nhánh của động mạch chậu gốc và ở đoạn tận đến chỗ phân nhánh động mạch chủ.

Bệnh xơ vữa động mạch có tắc

Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.

Phình tách động mạch chủ

Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.

Phình động mạch ngoại vi

Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.

Phình động mạch chủ ngực

Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.

Phình động mạch chủ bụng

Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.