Tắc động mạch đùi khoeo

2016-11-05 12:18 PM

Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh động mạch. Tỷ lệ bệnh này tăng cùng với tuổi; dù rằng biểu hiện của bệnh có thể xuất hiện ở tuổi tứ tuần, nhưng khị trên 40 tuổi (đặc biệt nam giới) hầu hết thường bị nhiễm bệnh. Yếu tố nguy cơ gồm tăng cholerterol máu, đái tháo đường, hút thuốc lá và tăng huyết áp. Xơ vữa động mạch có xu hướng là một bệnh toàn thân với mức độ nào đó bao gồm tất cả các động mạch lớn, nhưng nó chỉ biểu hiện trên lâm sàng, khi tác động nặng nề vào một số hạn chế các động mạch. Hẹp và tắc lòng động mạch là biểu hiện thường gặp nhất của bệnh, nhưng thành động mạch suy yếu do mất elastin và collagen, kết quả làm giãn phình mạch cũng biểu hiện, và cả hai hậu quả này có thể biểu hiện trên cùng một cá thể. Các bệnh động mạch ít gặp hơn bao gồm viêm động mạch (cả động mạch lớn và nhỏ), viêm mạch tạo huyết khối nghẽn (bệnh Buerger), loạn sản xơ của động mạch nội tạng, viêm động mạch chủ do giang mai, và viêm động mạch lan toả.

Ở vùng đùi và gối, mạch thường bị chẹn bởi tắc ở động mạch đùi nông và động mạch khoeo. Xớ vữa động mạch thường xuất hiện đầu tiên ở điểm cuối cùng của động mạch đùi nông, nơi mà nó vượt qua gân cơ chéo lớn đi vào hõm khoeo. Trong khi động mạch đùi nông có thể bị tắc, thì tiến triển tắc lan đến động mạch khoèo thường ít gặp hơn. Động mạch đùi chung và động mạch đùi sâu thường rõ và không liên quan tới tắc, dù gốc của động mạch đùi sâu đôi khi bị hẹp lại. Đoạn tận động mạch khoeo và 3 nhánh tận của nó cũng có thể không liên quan đến tắc.

Dấu hiệu và triệu chứng

Khập khiễng cách hồi thấy ở bắp chân và bàn chân. Teo riêng biệt phần thấp cẳng chân và bàn chân, với rụng lông và teo da và tổ chức dưới da, và giảm kích thước cơ. Thường có vùng đỏ xen vùng trắng bệch khi giơ chân cao.

Khi chân hạ thấp sau khi nâng, thời gian đổ đầy tĩnh mạch ở mặt trong của bàn chân có thể chậm 15 - 20 giây hoặc hơn. Bàn chân thường lạnh. Mạch nẩy của động mạch đùi chung thường rõ, qua đó có thể nghe được tiếng động. Không thể cảm nhận được mạch khoeo và mu chân. Đo áp lực ở phíá dưới cẳng chân, dùng siêu âm sẽ đưa ra một đánh giá chức năng khách quan về tuần hoàn và trợ giúp việc quyết định tiếp tục xét nghiệm X quang và khả năng phẫu thuật. Nói chung, sự khác nhau rõ ràng về áp lực giữa áp lực gốc chi và ngọn chi là tiên lượng xấu nhất cho bảo tổn chi mà không tái tạo lại được mạch.

Ghi hình ảnh

Nếu đang cân nhắc phẫu thuật, chụp động mạch đùi sẽ chỉ ra vị trí và độ rộng của đoạn tắc cũng như tình trạng của mạch tận, và hình ảnh nghiêng hoặc bên sẽ cho thây gốc của động mạch đùi sâu là hẹp. Điều quan trọng cũng phải nắm được tình trạng của mạch chủ - chậu, vì dòng chảy bình thường có liên quan cũng như các dòng chảy ở mạch tận là quan trọng trong việc xác định khả năng thành công của các biện pháp can thiệp động mạch. Chụp mạch có cộng hưởng từ hạt nhân là một cách hứa hẹn ít xâm nhập mà có được các thông tin tương tự.

Điều trị

Đi bộ là cách hiệu quả nhát để phát triển tuần hòan bàng hệ, và đi bộ đến khi có khập khiễng, tiếp tục sau 3 phút nghỉ ngơi, nên đi ít nhất 8 lần trong ngày. Phải bỏ hút thuốc lá.

Phẫu thuật chỉ định (1) nếu cơn đau cách hồi tiến triển hoặc mât khả năng hoạt động, cản trở rõ rệt những hoạt động sinh lý cần thiết của bệnh nhân và khả năng làm việc; hoặc (2) nếu đau khi nghỉ ngơi hoặc tổn thương tiền hoại thư hoặc hoại thư ở bàn chân.

Ghép động mạch

Ghép tĩnh mạch tự thân mà dùng đoạn thay thế là tĩnh mạch hiển, bắc cầu qua chỗ tắc. Nối tận thường cho động mạch khoeo dưới vị trí tắc chính. Trước khi làm miệng nối cần phá các van của tĩnh mạch hiển. Khi toàn bộ động mạch khoeo bị tắc hoặc hoại tử hoặc thiếu máu nặng ở bàn chân; nói chung nên cắt cụt tốt hơn là nối đến một động mạch cẳng chân khác, dù miệng nối cần nối đến động mạch chày hoặc động mạch mác là làm được bởi các phẫu thuật viên mạch máu có trình độ với thành công ngày càng tăng. Động mạch nhân tạo thay bằng đoạn nối PTFE (polytetrafluoroethylen) không được chứng minh là thành công ở vùng này bởi vì tỷ lệ cao bị huyết khối sớm hoặc muộn.

Cắt bỏ huyết khối màng trong động mạch

Phẫu thuật này có thể chỉ thành công nếu đoạn tắc và hẹp rất ngắn.

Khi có tắc động mạch đùi chung hoặc chủ - chậu cũng như động mạch đùi nông và động mạch khoeo; thường là nên làm giảm sự tắc nghẽn ở động mạch gốc và  lớn và để đòng máu chảy nhiều hơn đến động mạch đùi sâu tốt hơn là phẫu thuật những động mạch tận nhỏ hơn, nơi mà có rất ít cơ hội thành công. Nếu gốc động mạch đùi sâu bị hẹp, giới hạn làm ở đó tức là nong động mạch đùi sâu đủ có thể thành công trong việc cải thiện dòng máu đến chân và bàn chân.

Phẫu thuật nội mạch

Như trong tắc động mạch chủ - chậu, tổn thương tận có thể điều trị một hoặc nhiều cách không phải phẫu thuật, bao gồm (1) nong mạch bằng bóng, dùng dây thông có bóng ở đầu có khả năng làm giãn chỗ hẹp và chỗ tắc, (2) dùng các dụng cụ cắt mảng xơ vữa cơ học để loại bỏ mảng xơ vữa gây tắc ở lòng ở động mạch; (3) nong bằng nhiệt hoặc laser có thể làm mất chỗ tắc.

Những kỹ thuật này đòi hỏi phải chụp động mạch. Trong thời gian làm kỹ thuật nong thường phải dùng một thời gian thuốc chông đông, tiêu huyết khối, chống kết dính tiểu cầu và thuôc chống co thắt mạch. Hiện nay hẹp lòng động mạch được điều trị trở lại bằng những kỹ thuật này, hoặc có thể lựa chọn phẫu thuật cầu nối.

Phẫu thuật này thích hợp nhất với những tổn thương hẹp chỉ ở một đoạn hoặc ngắn. Ít hợp nhất với tổn thương hẹp nhiều đoạn, dài hơn 5cm, đoạn tắc hoàn toàn dưới 5 cm, tổn thương ở động mạch nhỏ, và hẹp đoạn nối hoặc miệng nối động mạch, đặc biệt nếu bệnh nhân có đái tháo đường hoặc hút thuôc lá.

Sau bất cứ phương pháp nào, nói chung bệnh nhân duy trì điều trị chống ngưng kết tiểu cầu kéo dài. Liều 80 - 325 mg thường được dùng dù liều tối ưu còn đang bàn cãi.

Tiên lượng

Huyết khối ở đoạn cầu nối hoặc ở đoạn đã cắt bỏ màng trong động mạch ngay lập tức sau mổ hoặc vài tháng hoặc vài năm liên quan thường thường ở vùng động mạch khoeo - đùi nông. Điều này xảy ra nếu có hẹp ở động mạch chậu hoặc nếu một hoặc cả 3 nhánh của động mạch khoeo bị tắc nhiều. Nó cũng xảy ra sau cắt bỏ màng trong động mạch, khi dùng một đoạn ghép tổng hợp, hoặc sau khi nong. Với lý do này, thường không mổ khi khập khiễng nhẹ và trung bình, và xấp xỉ ở 80% bệnh nhân với những triệu chứng ổn định và sống trong nhiều năm không có tiến triển nào. Một vài bệnh nhân có thể cải thiện được tuần hoàn bàng hệ. Những cơ hội để cải thiện sau phẫu thuật là ít ở những bệnh nhân bị thiếu máu cục bộ hoặc hoại tử sớm, nhưng phẫu thuật và nong thường là đúng vì một vài trường hợp có thể tránh được cắt cụt. Qua 5 năm tỷ lệ tồn tại cầu nối tĩnh mạch hiển là 60 - 80%, hoặc ít hơn nếu cầu nối đến động mạch chày. Và 2 năm sau nong lòng mạch là 80%, cũng tốt như cầu nối tĩnh mạch ở thời kỳ này, dù kết quả lâu dài có thể không tốt như vậy. Chỉ khoảng 50% bệnh nhân này sống được 5 năm; phần lớn chết do biến chứng xơ vữa động mạch, đặc biệt nhồi máu cơ tim. Sau 5 năm, tỷ lệ tử vong hàng năm vượt tỷ lệ mất tác dụng của đoạn ghép.

Bài viết cùng chuyên mục

Hạ huyết áp và sốc

Sốc xuất hiện khi tuần hoàn máu động mạch không đủ cung cấp cho nhu cầu chuyển hóa của mô. Điều trị phải hướng đến cả chống sốc và điều trị nguyên nhân.

Phù bạch huyết

Đoạn viêm cấp hoặc mạn có thể cùng thêm vào, với tình trạng ứ trệ và xơ hóa tăng lên. Kết quả là chân sưng to, da và tổ chức dưới da xơ hóa và dày rõ và giảm các mô mỡ.

Viêm mạch bạch huyết và viêm hạch bạch huyết

Viêm mạch bạch huyết có thể nhầm với viêm tĩnh mạch huyết khối nông, nhưng phản ứng ban đỏ đi kèm với huyết khối thường nằm trên nền cứng của phản ứng viêm ở tại hoặc xung quanh tĩnh mạch có huyết khối.

Tắc tĩnh mạch chủ trên

Biểu hiện của triệu chứng thường cấp hoặc bán cấp, triệu chứng bao gồm sưng nề ở cổ, mặt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, trạng thái sững sờ, hoặc ngất.

Thiểu năng tĩnh mạch mạn tính

Suy tim ứ trệ và bệnh nhân mạn tính có thể gây phù cả hai bên cẳng chân, nhưng nói chung nó có những biểu hiện về lâm sàng và xét nghiệm của bệnh thận và tim.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông

Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó.

Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch sâu

Tiền sử bị suy tim ứ trệ, mới phẫu thuật, khối u, dùng thuốc tránh thai đường uống, hoặc giãn tĩnh mạch; không hoạt động kéo dài cũng có thể là tiền tố bị bệnh.

Giãn tĩnh mạch

Giãn, nổi chằng chịt, kéo dài tĩnh mạch dưới da ở đùi và chân nói chung nhìn thấy rõ khi đứng, tuy nhiên ở bệnh nhân béo phì có thể cần thiết phải sờ để phát hiện biểu hiện và vị trí.

Bệnh học loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Ở giai đoạn sớm, đau, nhạy cảm với đau, tăng cảm có thể đúng ở vị trí vùng tổn thương, và chi có thể ấm, khô, lồi, và đỏ hoặc tím nhẹ, chi được giữ ở vị trí cố định bởi những khối cơ.

Tím và đỏ đau đầu chi

Đỏ đau đầu chi là một rối loạn giãn mạch kịch phát cả hai bên, nguyên nhân chưa được biết. Đỏ đau đầu chi tự phát xuất hiện trên người khoẻ mạnh bình thường, hiếm khi ở trẻ em, ở nam giới và nữ giới là tương đương.

Mạng xanh tím hình lưới trên da

Mạng xanh tím hình lưới phần lớn biểu hiện ở đùi và cẳng tay và có thể ở phía dưới bụng, phần lớn nó đước báo trước khi trời lạnh. Màu sắc có thể thay đổi thành màu hơi đỏ khi thời tiết ấm nhưng không phải biến mất hoàn toàn.

Bệnh raynaud và hiện tượng raynaud

Bệnh Raynaud hoặc hiện tượng Raynaud có tính chất xuất hiện từng đợt trắng hoặc tím hoặc trắng sau đó là tím ở ngón tay (hiếm khi ngón chân), xuất hiện khi lạnh hoặc khi xúc động.

Bệnh nghẽn động mạch do Cholesterol

Ở vài bệnh nhân xơ vữa động mạch nặng gồm cả động mạch chủ và các nhánh của nó, dễ dàng nhận thấy một hội chứng do các vi nghẽn mạch từ các mảng xơ vữa.

Viêm động mạch tự phát Takayasu: bệnh vô mạch

Bệnh vô mạch phải được phân biệt với các tổn thương mạch ở quai động mạch chủ do xơ vữa, dù rằng do xơ vữa ở cả hai chi đưâi có biểu hiện khác nhau. Về mô học, tổn thương động mạch phân biệt với viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Viêm mạch huyết khối tắc nghẽn: bệnh buerger

Bệnh Buerger là một quá trình từng đợt từng đoạn bị nhiễm khuẩn và huyết khối ở động mạch và tĩnh mạch, chủ yếu ở chân. Nguyên nhân chưa được biết.

Tắc động mạch huyết khối cấp

Tắc động mạch không hoàn toàn, mạn tính thuờng là do có thiết lập được tuần hoàn bàng hệ, và lưu lượng máu sẽ tăng qua tuần hoàn bàng hệ một khi có tắc tuần hoàn.

Tắc nghẽn động mạch cấp

Ở chân, triệu chứng đầu tiên thường là đau, tê cóng, lạnh và đau nhói. Không bắt được mạch ở động mạch bị tắc, lạnh, có những đốm hoặc xanh, giảm hoặc mất cảm giác và yếu, co thắt cơ, hoặc liệt.

Thiểu năng động mạch nội tạng

Đột ngột xuất hiện đau thắt bụng liên tục hoặc như bó chặt ở thượng vị và quanh rốn phối hợp với thấy rất ít hoặc không có gì qua khám bụng và thường bạch cầu tăng cao gọi là một trong sự cố của hệ mạc treo tràng trên.

Tắc mạch não

Tai biến mạch máu não thoáng qua có thể là biểu hiện sớm nhất của loét hoặc hẹp động mạch. Nó thường chỉ kéo dài trong vài phút nhưng có thể tái diễn trong 24 giờ.

Bệnh động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường

Biểu hiện thần kinh của đái tháo đường với giảm hoặc mất nhận cảm của ngón chân và bàn chân có thể có, đưa đến tổn thương hoặc đê doạ loét mà có thể không để ý bởi vì không có đau.

Tắc động mạch cẳng chân và bàn chân

Toàn bộ các biểu hiện có thể có của bệnh mạch ở cẳng chân và bàn chân không thể mô tả ở đây, chỉ có thể trình bày những khía cạnh lâm sàng chủ yếu có giá trị ở những bệnh nhân này.

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu

Tắc động mạch chủ và động mạch chậu thường gặp từ đoạn gốc đến chỗ phân nhánh của động mạch chậu gốc và ở đoạn tận đến chỗ phân nhánh động mạch chủ.

Bệnh xơ vữa động mạch có tắc

Tắc động mạch chủ và các nhánh của nó là nguyên nhân thường gặp gây ra tàn tật. Nó cũng là một xác nhận về tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tim mạch và những cuộc mổ mà họ trải qua.

Phình tách động mạch chủ

Máu lách vào thành động mạch chủ, gây tách động mạch chủ. Chỗ tách nói chung bắt đầu từ đoạn gốc động mạch chủ ngay trên van động mạch chủ hoặc đầu còn lại ở chỗ phân nhánh động mạch dưới đòn trái.

Phình động mạch ngoại vi

Phần lớn các loại khác của phình mạch ngoại vi là ở động mạch đùi. Hầu hết tất cả là xơ vữa động mạch và xuất hiện trên nam giới, thường bị cả hai bên.

Phình động mạch chủ ngực

Nếu nó có đi kèm bệnh van động mạch chủ, thay động mạch chủ là cần thiết, cũng có thể có chỉ định tái lập lại động mạch vành họặc cầu nối chủ vành.

Phình động mạch chủ bụng

Phình ở đoạn động mạch chủ ở trên ít gặp hơn. Đường kính của động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh động mạch thận bình thường là 2 cm, khi đường kính vượt quấ 4 cm là nghi ngờ phình mạch.