Những dấu hiệu và triệu chứng thường gặp của ung thư vú ở nữ

2016-12-02 12:44 PM

Một u ác tính có thể rất rõ ràng, biểu hiện dưới dạng khối u kèm theo hạch và bất thường ở da hoặc có thể là hơi dày lên một phần vú và không có bất thường nào khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng

Dấu hiệu thường gặp nhất của bệnh ung thư vu là sờ thấy có khối u, tự bệnh nhân phát hiện khối u có thể là lành tính, hoặc là ác tính. Một khối u sờ có thể phẳng và mềm (như u xơ tuyến vú hoặc nang tuyến vú) hoặc có thể chắc và không đều (như ung thư). Nhiều bệnh nhân thấy đau ở vú, trong khi điều này thường không liên quan với bệnh nặng và thường do thay đổi u xơ tuyến vú ở phụ nữ tiền mãn kinh. Tuy nhiên vài bệnh nhân kêu đau được phát hiện có ung thư. Thông thường nhất là những bệnh nhãn có u lan tỏa liên quan đến đau được chẩn đoán làm sàng bệnh u xơ. Bệnh lành tính và ác tính ở vú có thể biểu hiện nhứ chảy dịch ở núm vu hoặc tụt núm vú hay đỏ núm vú giống như chàm. Chảy dịch núm vú hầu hết có liên quan với loạn sản ống lành tính hoặc u nang. Chảy dịch máu có thể là dấu hiệu của ung thư nhưng thường là dấu hiệu của u nhú nội tuyến lành tính. Núm vú tụt hay đỏ như chàm có thể là do bệnh ung thư như trong bệnh Paget. Nhiều thay đổi ở da có thể thấy ở các u lành tính và ác tính. Ban đỏ và phù nề có thể biểu hiện viêm vú ở dưới hoặc ung thư vú giai đoạn muộn hay ung thư vú kèm theo viêm. Đau vú thường có liên quan với bệnh u xơ tuyến vú, nhưng khi đi kèm với ban đỏ và phù nề thì có biểu hiện viêm vú. Lõm da tại chỗ hoặc tụt núm vú có thể là dấu hiệu của bệnh u xơ tuyến vú hay viêm một phần vú nhưng cũng có thể biểu hiện của bệnh ung thư bên trong. Hiếm khi có một ung thư có biểu hiện hạch sờ rõ ràng mà không có sự bất thường nào tròng vú đó.

Một u ác tính có thể rất rõ ràng, biểu hiện dưới dạng khối u kèm theo hạch và bất thường ở da hoặc có thể là hơi dày lên một phần vú và không có bất thường nào khác. Đa số những người có vấn đề liên quan đến vú của họ là bệnh lành tính nhưng cũng có nhiều bệnh nhân có dấu hiệu và triệu chứng ở vú có thể có liên quan hay tiềm ẩn một ung thư và cần được theo dõi chặt chẽ.

Những xét nghiệm chẩn đoán

Xét nghiệm chẩn đoán đáng tin cậy nhất của ung thư vú là sinh thiết mờ sinh thiết này thực hiện sau khi bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ u thì nhà tế bào học mới tiến hành xét nghiệm tế bào học cho nên không có kết qủa âm tính giả dương tính giả.

Sình thiết bằng kim to là một kỹ thuật chẩn đoán được tiến hành bằng cách lấy khối mô lõi bằng kim cắt to. Trong một sinh thiết bằng kim bất kỳ, vấn đề chính có thể là lấy nhầm bệnh phẩm do chọc kim sai vị trí do vậy đưa đến kết quả âm tính giả.

Chọc hút bằng kim nhỏ đề xét nghiệm tế bào học là một kỹ thuật hữu ích, lấy tế bào từ khối u vú bằng kim nhỏ (cỡ 22) và được nhà tế bào học làm xét nghiệm. Kỹ thuật này thực hiên dễ dàng và rẻ hơn nhiều so với sinh thiết mở. Nhược điểm chính là kỹ thuật này đòi hỏi kỹ năng chẩn đoán cao của nhà tế bào học trong chẩn đoán bệnh ung thư vú và kỹ thuật lấy bệnh phẩm vì những tổn thương ở sâu có thể lẩn mất. Tỉ lệ dương tính giả rất thấp, có thể 1 - 2%. Tỉ lệ chẩn đoán âm tính giả bằng chọc hút dịch kim nhỏ lên đến 10% ở một số nhóm. Hầu hết các thầy thuốc lâm sàng có kinh nghiệm không để lại khối u đã rõ ở trong vú bệnh nhân thậm chí cả khi chọc hút bằng kim nhỏ âm tính, trừ khi chẩn đoán lâm sàng, xét nghiệm hình ảnh vú và xét nghiệm tế bào đều âm tính.

Siêu âm thực hiện chủ yếu để phân biệt u nang hay tổn thương đặc và không để chẩn đoán ung thư. Siêu âm có thể cho thấy khối bất thường trong nang. Nếu khối u sờ rõ và thầy thuốc cảm thấy dưới dạng nang thì có thể dùng kim cỡ 18 để chọc hút dịch và làm chẩn đoán nang. Nếu dịch trong nang hút ra không có máu thì không phải làm xét nghiệm tế bào học. Nếu u không tái phát thì không cần làm thêm xét nghiệm chẩn đoán nữa. Chụp tuyến vú có mật độ tăng mà không sờ thấy u cần được kiểm tra siêu âm để xác định tổn thương là nạng hay đặc.

Khi bác sĩ thấy có nghi ngờ bất thường qua chụp vú mà không thể sờ nắn được thì cần sinh thiết dưới sự xác định vị trí của chụp hình tuyến vú. Điều này được thực hiện chụp vú theo hai bình diện vuông góc và đặt chiếc kim hay dây thép gần vị trí bất thường để người phẫu thuật viên có thể sử dụng kim hay dây thép này dẫn đường xác định tổn thương trong lúc mổ. Sau khi chụp X quang có thể xác định vị trí của chiếc kim liên quan đến tổn thương, bác sĩ thực hiện vết mổ và phẫu tích lớp dưới da cho đến khi xác định được kim. Sử dụng, những tấm phim dẫn đường, vị trí có tổn thương được xác định và lấy bỏ. Đôi khi xảy ra trường hợp không sờ thấy tổn thương qua chỗ rạch đây là trường hợp vi calci hóa và do vậy cần phải chụp lại tuyến vú để xác định tổn thương đã được lấy ra. Lúc này cần có thêm chiếc kim thứ hai để xác định vị trí tổn thương cho nhà tế bào học.

Những mô phỏng hai chiều bằng máy vi tính gần đây được phối hợp với các phòng chụp X - quang vú để xác định những bất thường ở vú và tiến hành sinh thiết kim mà không phải mổ, dưới sự hướng dẫn của chụp X - quang vú, làm sinh thiết được đưa vào trong tổn thương trên các phim chụp X - quang vú và lấy ra máu bệnh phẩm để xét nghiệm tế bào hoặc giải phẫu bệnh. Những nghiên cứu về mẫu bệnh phẩm sinh thiết kim cho thấy kết quả tương đương với phương pháp sinh thiết đưa trên định vị của chụp X - quang tuyến vú. Sinh thiết kim này thích hợp hơn là định vị trên phim X - quang tuyến vú đối với những tổn thương dễ thấy.

Bài viết cùng chuyên mục

Bất thường của vú được tạo hình

Những báo cáo gần đây cho rằng có sự liên quan giữa Silicon dạng gel và bệnh tự miễn đã làm cho nhiều nhà phẫu thuật thẩm mỹ ngừng sử dụng Silicon dạng gel làm chất liệu độn

Hoại tử mỡ và áp xe vú

Nếu tổn thương tiến triển và hình thành một khối xác định có các dấu hiệu tại chỗ và theo hệ thống của nhiễm khuẩn, một áp xe xuất hiện và cần được dẫn lưu, phải tiếp tục chăm sóc.

Tiết dịch núm vú

Các thuốc tránh thai dạng uống có thể gây ra dịch tiết trong, thanh dịch hoặc sữa từ một ống tuyến nhưng thường tiết dịch thấy rõ trước khi kinh nguyệt và mất đi khi ngừng dùng thuốc.

U xơ tuyến vú

Điều trị bằng lấy bỏ u sau gây tê tại chỗ là thủ thuật cho bệnh nhân ngoại trú và xét nghiệm mô bệnh học. Sarcom nang dạng lá là một loại u xơ tuyến với chất đệm tế bào có xu hướng phát triển nhanh.

Loạn sản vú: bệnh xơ nang

Loạn sản vú có thể sinh ra những u cục không có triệu chứng ở vú mà có thể tình cờ được phát hiện, nhưng đau hoặc nhạy cảm đau thường gây ra sự chú ý đến khối u. Có thể có tiết dịch từ núm vú.

Ung thư vú ở nam

Một cục không đau, thường liên quan với tiết dịch núm vú, tụt núm vú, trợt loét ở núm vú là những rối loạn chính. Thăm khám thường thấy một khối rắn, khó xác định, không đau ở dưới núm vú hoặc quầng vú.

Điều trị triệt căn ung thư vú ở nữ

Các yếu tố về khả năng phát triển khối u và đề kháng của vật chủ thay đổi trong giới hạn rộng giữa bệnh nhân này với bệnh nhân khác và có thể thay đổi trong thời gian phát triển bệnh.

Theo dõi sau điều trị ung thư vú ở nữ

Tỷ lệ mới mắc của tái phát tại chỗ có mối tương quan với kích thước u, sự hiện diện và số lượng các hạch nách có liên quan, typ mô học của khối u và sự xuất hiện phù nề da, dính cân cơ ngực với u nguyên phát.

Tiên lượng ung thư vú ở nữ

Hầu hết bệnh nhân bị ung thư vú cuối cùng sẽ chết vì bệnh này. Tỷ lệ chết do ung thư vú luôn cao hơn tỷ lệ chết nói chung trên cùng lứa tuổi trong gần 20 năm qua.

Điều trị triệu chứng ung thư vú ở nữ

Tia xạ triệu chứng cũng có giá trị trong điều trị các di căn xương và phần mềm để kiểm soát đau và tránh gãy xương. Điều trị tia xạ đặc biệt hữu ích trong điều trị di căn xương và tái phát thành ngực.

Thụ thể hormon ung thư vú ở nữ

Một số nghiên cứu cho rằng các thụ thể estrogen có giá trị tiên lượng bệnh. Bệnh nhân có u nguyên phát có thụ thể dương tính thì điều trị có hiệu quả hơn là bệnh nhân có khối u mà thụ thể âm tính.

Các thể ung thư vú đặc biệt ở nữ trên lâm sàng

Đây là dạng ác tính nhất của ung thư vú, và chiếm dưới 3 phần trăm tất cả các trường hợp, các triệu chứng lâm sàng bao gồm u phát triển nhanh.

Phân giai đoạn và các thể giải phẫu bệnh ung thư vú ở nữ

Khi xác định ung thư không xâm lấn thì ít di căn. Tuy nhiên ở những bệnh nhân sinh thiết cho kết quả ung thư nội ống không xâm lấn thì có 1- 3% trường hợp ung thư xâm lấn ống.

Các triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán ung thư vú ở nữ

Bệnh nhân ung thư vú thường nổi cục ở vú. Khi làm bệnh án, điểm đặc biệt cần phải ghi nhạn về các yếu tố nguy cơ ung thư vú, quãng thời gian có liên quan giữa khối u và chu kỳ kinh nguyệt và những bệnh của vú trước đó.

Phát hiện sớm ung thư vú ở nữ

Sàng lọc ở phụ nữ hơn 70 tuổi nên được tiến hành sau khi bác sĩ xem xét đánh giá tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân và các bệnh khác. Phụ nữ dưới 50 tuổi cần được từ vấn cá nhân.

Tỷ lệ mắc và những yếu tố nguy cơ ung thư vú ở nữ

Phụ nữ bị ung thư thân tử cung có nguy cơ cao ung thư vú hơn phụ nữ bình thường, và phụ nữ ung thư vú có nguy cơ cao tương ứng mắc ung thư nội mạc tử cung, ở Mỹ ung thư vú ở người da trắng nhiều hơn ở người da màu.