Hoại tử mỡ và áp xe vú

2016-12-05 12:47 AM

Nếu tổn thương tiến triển và hình thành một khối xác định có các dấu hiệu tại chỗ và theo hệ thống của nhiễm khuẩn, một áp xe xuất hiện và cần được dẫn lưu, phải tiếp tục chăm sóc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hoại tử mỡ

Hoại tử mỡ là một tổn thương hiếm gặp của vú nhưng quan trọng trên lâm sàng vì nó sinh ra u, thường dính với da hoặc núm vú và điều này khó phân biệt với ung thư. Nguyên nhân được cho là do sang chấn mặc dù chỉ có một nửa số bệnh nhân có chấn thương ngực trong tiền sử. Bầm máu đôi khi ở gần u. Có thể có hoặc không nhận cảm đau. Nếu không điều trị, khối u có liên quan đến hoại tử mỡ có thể mất dần đi. Như thường lệ, biện pháp an toàn nhất là sinh thiết. Toàn bộ khối u phải lấy đi. Hoại tử mỡ thường thấy sau cắt một phần vú và sau điều trị tia xạ.

Áp xe vú

Trong thời gian chăm sóc, một vùng đỏ nhậy cảm đau và cứng hay xuất hiện ở vú. Vi khuẩn thường gặp nhất ở trong những áp xe này là tụ cầu vàng trong giai đoạn sớm nhiễm khuẩn có thể mất đi trong khi chăm sóc dùng kháng sinh như dicloxacilin hoặc oxacillin, liều 250 mg 4 lần một ngày trong 7 - 10 ngày.

Nếu tổn thương tiến triển và hình thành một khối xác định có các dấu hiệu tại chỗ và theo hệ thống của nhiễm khuẩn, một áp xe xuất hiện và cần được dẫn lưu, phải tiếp tục chăm sóc.

Áp xe dưới quầng vú có thể thấy (hiếm) ở phụ nữ trẻ và trung niên không cho con bú. Nhiễm khuẩn này có xu hướng tái phát sau khi rạch và dẫn lưu trừ khi vùng này được thăm dò trong khoảng thời gian không có triệu chứng bằng cách mở vào ống tuyến sữa hoặc tuyến ống ở đáy núm vú. Ngoài loại áp xe dưới quầng vú ra thì nhiễm khuẩn vú ít gặp trừ trường hợp đang cho con bú. Ở vú không tiết sữa, ung thư thể viêm phải luôn được xem xét tới. Do vậy những triệu chứng gợi ý áp xe ở vú không tiết sữa là một chỉ định để rạch và sinh thiết bất kỳ mô cứng nào.

Các danh mục

Chẩn đoán và điều trị y học tuổi già

Tiếp cận bệnh nhân dự phòng và các triệu chứng chung

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư

Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ

Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt

Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng

Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp

Chẩn đoán và điều trị bệnh tim

Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết

Chẩn đoán và điều trị bệnh máu

Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa

Chẩn đoán và điều trị bệnh tuyến vú

Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa

Chẩn đoán và điều trị sản khoa

Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng

Đánh giá trước phẫu thuật

Chăm sóc giai đoạn cuối đời

Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nước điện giải

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bị bệnh thận

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần

Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết

Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng

Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán

Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm