- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Hoạt động tình dục của phụ nữ
Hoạt động tình dục của phụ nữ
Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Sự kích thích hoạt động sinh dục ở phụ nữ
Cũng như ở nam giới, quá trình trưởng thành hoạt động sinh dục ở nữ giới cũng dựa trên sự kích thich về tâm lý cũng như sự kích thích sinh dục tại vùng.
Nghĩ về tình dục có thể dẫn đến sự ham muốn tình dục và giúp nhiều cho việc thực hiện hoạt động sinh dục. Sự ham muốn dựa trên ham muốn tâm lý và ham muốn sinh lý, mặc dù sự ham muốn tình dục tăng lên tỉ lệ với lượng hormone sinh dục được tiết ra. Sự ham muốn cũng thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, đạt đỉnh khi gần rụng trứng, có thể vì nồng độ cao của estrogen được tiết ra trong giai doạn tiền rụng trứng.
Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.
Như ở nam giới, tín hiệu thần kinh của cảm giác tình dục được vận chuyển đến các đốt tủy cùng của tủy sống thông qua các dây thần kinh từ bộ phận sinh dục ngoài và đám rối thần kinh cùng. Một khi những tín hiệu này đi vào tủy sống, chúng được vận chuyển lên não. Ngoài ra, phản xạ tại chỗ inter-grated của vùng tủy cùng và tủy lưng ít nhất cũng tham gia một phần tạo ra các đáp ứng tại chỗ tại bộ phận sinh dục phụ nữ.
Sự cương cứng và sự bôi trơn ở phụ nữ
Nằm xung quanh đường vào âm đạo và xung quanh âm vật là mô cương cứng gần giống như mô cương cứng của dương vật.
Mô cương cứng này, tương nhự như dương vật, được chi phối bởi thần kinh phó giao cảm đi xuyên qua thần kinh tạng vùng chậu từ đám rối cùng đến bộ phận sinh dục ngoài. Trong giai đoạn sớm của sự kích thích tình dục, tín hiệu phó giao cảm làm giãn các động mạch trong mô cương, có thể là hậu quả của việc bài tiết acetylcholin, nitric oxit và polypeptide vận mạch trong ruột - VIP tại đầu tận các dây thần kinh. Việc này dẫn đến sự ứ máu đột ngột trong mô cương làm cho cửa âm đạo bó chặt lấy dương vật; việc này giúp cho người đàn ông đạt được trạng thái cực khoái và xuất tinh.
Các tín hiệu phó giao cảm còn đi đến đôi tuyến Batholin nằm ở phí dưới hai môi bé và khiến chúng ngay lập tưc stieets chất nhầy vào trong âm vật. Chất nhầy này có vai trò bôi trơn trong khi quan hệ tình dục, mặc dù một phần chức năng bôi trơn đến từ chất nhầy được tiết ra từ biểu mô âm đạo và một phần nhỏ từ niệu đạo nam giới. Sự bôi trơn quan trọng đối với hoạt động quan hệ tình dục để đạt được sự vừa lòng về cảm giác xoa bóp hơn là cảm giác kích thích, cảm giác có thể được tạo ra khi kích thích âm đạo nhưng không tiết chất nhờn. Cảm giác xoa bóp tạo nên cực khoái bời vì kích thích thích hợp tạo phản xạ cuối cùng ở cả 2 người nam và nữ đều cực khoái.
Khoái cảm ở phụ nữ
Khi kích thích tại chỗ đạt cực đỉnh, và đặc biệt khi cảm giác tại chỗ được trợ giúp thêm bởi tín hiệu tâm lý thích hợp từ não bộ, các phản xạ bắt đầu tạo ra khoái cảm, hay còn gọi là điểm cực khoái của phụ nữ.
Điểm cực khoái của phụ nữ cũng tương tự cực khoái và phóng tinh ở nam giới, và nó có thể điều khiển sự thụ tinh của noãn. Thực ra, phụ nữ được biết đến hơi có phần dễ thụ tinh hơn khi đưa tinh trùng vào bằng quan hệ tình dục thông thường hơn là phương pháp nhân tạo, do đó cho thấy chức năng quan trọng của đỉnh cực khoái ở phụ nữ. Một vài lý do được nêu ra sau đây:
Thứ nhất, trong giai đoạn cực khoái, các cơ đáy chậu co thắt - là một phản xạ của tủy sống tương tự như hiện tượng phóng tinh ở nam giới. Có thể việc này khiến cho tử cung và vòi Fallope đi động nhiều hơn trong giai đoạn cực khoái, do đó giúp tinh trùng di chuyển lên qua tử cung đến với noãn; tuy nhiên thông tin này vẫn còn chưa được kiểm chứng.
Ngoài ra, cực khoái dường như làm giãn cở tử cung tới 30 phút, do đó giúp cho việc di chuyển của tinh trùng được dễ dàng hơn.
Thứ hai, ở một số động vật bậc thấp hơn, khi giao hợp khiến cho thùy trước tuyến yên tiết ra oxytocin; ảnh hưởng này được khởi đầu từ hạch hạnh nhân ở não sau đó đi qua vùng dưới đồi rrồi đến tuyến yên. Oxytocin gây ra tăng nhịp co cơ tử cung, làm tăng sự vận chuyển của tinh trùng. Một số tinh trùng đã chỉ ra rằng thời gian đi qua toàn bộ chièu dài vòi Fallope của bò là khoảng 5 phút, nhanh gấp 10 lần tốc độ bơi của tinh trùng bình thường có thể đạt được. Nhưng hiện tượng này trên người vẫn chưa được kiểm chứng.
Bên cạnh sự ảnh hưởng của cực khoái lên sự thụ tinh, cảm giác tình dục mãnh liệt được phát triển trong giai đoạn cực khoái cũng có thể đi lên não và gây co cơ mạnh trên toàn bộ cơ thể.
Nhưng sau trạng thái cực điểm sau hoạt động tình dục, sẽ mang đến cảm giác thỏa mãn kéo dài khoảng vài phút, được goi là thoái trào.
Thời điểm thích hợp cho thụ thai của phụ nữ
Thời điểm thích hợp cho thụ thai trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Noãn sống và có thể thụ tinh sau khi rụng khỏi nang trứng trong vòng 24 giờ. Do đó, tinh trùng bắt buộc phải có mặt sớm sau khi rụng trứng nếu muốn được thụ tinh.
Một số tinh trùng có thể sống được trong ống sinh dục phụ nữ khoảng 5 ngày. Do đó,để sự thụ tinh xảy ra, gaio hợp phải diễn ra trong vòng 4-5 ngày trước khi rụng trúng đến vài giờ sau khi trứng rụng. Do đó, giai đoạn thích hợp để thụ thai của phụ nữ khá ngắn, chỉ khoảng 4-5 ngày.
Phương pháp tránh thai theo nhịp
Một trong những phương pháp tránh thai được sử dụng trên thực tế là không quan hệ gần thời gian rụng trứng. Điều khó khăn của phương pháp này là biết được chính xác thời gian trứng rụng. Khoảng thời gian từ khi trúng rụng đến khi bắt đầu hành kinh khoảng 13-15 ngày. Do đó, nếu chu kỳ kinh nguyệt bình thường, kéo dài đúng 28 ngày, sự rụng trứng thường xảy ra trong khoảng ngày thứ 14±1. Nếu ngược lại, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 40 ngày, thì ngày rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 26±1, còn nếu chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 21 ngày thì ngày rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 7±1. Do đó, thường nên tránh quan hệ 4 ngày trước ngày dự tính rụng trứng đến 3 ngày sau thời gian dự đoán trứng rụng. Tuy nhiên biện pháp này chỉ dành cho những gười có độ dài chu kỳ kinh nguyệt không đổi.
Tỉ lệ thất bại của phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngoài ý muốn, có thể đến mức 20-25% mỗi năm.
Hormone ức chế sự thụ tinh thuốc ngừa thai
Đã từ lâu ta đã phát hiện ra rằng dùng estrogen hoặc progesteron, nếu với một lượng thích hợp trong nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt, có thể ức chế rụng trứng. Lý do là sự cung cấp thích hợp một trong 2 hormone có thể ngăn chặn đỉnh LH giai đoạn tiền rụng trứng được tiết ra bởi thùy trước tuyến yên, là một yếu tố qua trọng cho việc trứng rụng.
Lý do vì sao việc cung cấp estrogen hoặc progesterone lại ngăn chặn tạo đỉnh LH giai đoạn tiền rụng trứng vẫn chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, trên thí nghiệm gợi ý rằng ngày trước khi có đỉnh LH, có sự giảm đột ngột nồng độ estrogen được iết ra từ nang trứng, và đó có thể là một tín hiệu quan trọng tạo ra một feedback sau đó lên thùy trước tuyến yên và gây ra đỉnh LH. Sự cung cấp hormone giới tính (estrogen hoặc progesterone) có thể ngăn chặn việc giảm nồng độ hormone buồng trứng do đó không còn tín hiệu kích hoạt rụng trứng.
Vấn đề tìm ra phương pháp ức chế rụng trứng thông qua hormone đã được phát triển từ sự kết hợp thích hợp giữa estrogen và progestin làm ức chế rụng trứng nhưng không ra các tác dụng không mong muốn. Ví dụ, quá nhiều 1 trong 2 hormone có thể gây ra chảy máu bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, sử dụng một số progestin nhân tạo để thay thế progesterone, đặc biệt là 19-norsteroids, cùng với một lượng nhỏ estrogen thường ngăn chặn rụng trứng và gần như không ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt. Do đó, hầu như tất cả thuốc tránh thai nhằm điều khiển khả năng thụ tinh bao gồm một số sự kết hợp giữa estrogen ngoại sinh và progesterone ngoại sinh. Lý do chính chúng ta sử dụng các hormone nhân tạo là vì các hormone được tổng hợp ngoài tự nhiên cũng hầu như bị phân hủy hoàn toàn ở gan trong một thời gian ngắn sau khi chúng đi từ ống sinh dục vào hệ tĩnh mạch cửa. Tuy nhiên, nhiều hormone nhân tạo có thể có khuynh hướng kháng lại sự phân hủy ở gan, vì thế nên dùng thuốc dạng uống.
Hai loại hormone estrogen nhân tạo hay được dùng nhất là estradiol và mestranol, còn các progesterone nhân tạo hay dùng là norethindrone, norethynodrel, ethynodiol, and norgestrel. Thuốc thường được bắt đầu sử dụng vào giai đoạn sớm của chu kỳ kinh nguyệt và tiếp tục dùng sau thời điểm trứng rụng trên tính toán xảy ra. Nếu quên thuốc, đợi xảy ra hành kinh xong và bắt đầu một chu kì thuốc mới.
Tỉ lệ thất bại của phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngoài ý muốn, khoảng 8-9% mỗi năm.
Một số nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở phụ nữ
Khoảng 5-10% phụ nữ bị vô sinh. Đôi khi, không thể tìm được nguyên nhân gây vô sinh trên thực thể, khi đó chúng ta phải thừa nhận rằng nguyên nhân vô sinh là do chức năng sinh lý sinh sản hoặc do sự phát triển bất thường của gen của noãn.
Nguyên nhân phổ biến dẫn đến vô sinh ở phụ nữ là do không thể rụng trứng. Có thể là hậu quả của sự bài tiết thiếu các hormone điều hòa tuyến sinh dục, hơn nữa những trường hợp có sự kích thích hormone quá mức thường không thích hợp để gây ra rụng trứng, hoặc có thể là hậu quả từ buồng trứng bất thường nên trứng không thể rụng được. Ví dụ, buồng trứng có vỏ bọc dày bên ngoài làm cho sụ rụng trứng khó có thể diễn ra.
Bởi vì tỉ lệ chu kỳ kinh nguyệt không rụng trứng gặp nhiều ở những phụ nữ vô sinh, một số phương pháp đặc biệt được sử dụng để xác định chu kì nào có trứng rụng. Những phương pháp này dựa trên sự tác động của progesterone lên cơ thể, vì sự tăng bài tiết progesterone thường xảy ra vào nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt. Khi không có sự tăng bài tiết progesterone, chu kì đó được coi là không có rụng trứng.
Một trong những test này là đơn giản chỉ phân tích sự tăng đột ngột của pregnanediol, sản phẩm phân hủy của progesterone trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt. Nếu không có chất này, tức là sự rụng trứng đã thất bại. Một test phổ biến khác là theo dõi thân nhiệt người phụ nữ trong suốt chu kỳ kinh nguyệt. Sự bài tiết progesteron trong nửa sau chu kỳ kinh nguyệt làm thân nhiệt tăng lên khoảng 0,5 độ C; thân nhiệt sẽ tăng lên đột ngột vào lúc sự rụng trứng xảy ra.
Không rụng trứng do nguyên nhân bài tiết thiếu hormone điều hòa tuyến sinh dục từ tuyến yên đôi khi co thể điều trị bằng cung cấp hormone điều hòa tuyến sinh dục từ nhau thai người vào một thời điểm thích hợp; hormone này được chiết xuất từ rau thai người. Hormone này, mặc dù được tiết ra từ rau thai, nhưng có tác dụng gần giống như LH và do đó gây kích thích mạnh mẽ buồng trứng. Tuy nhiên, nếu dùng quá liều hormone này có thể làm cho nhiều nang tửng cùng phát triển cùng một lúc, điều này tạo ra những trường hợp sinh đôi, sinh ba,… Có thể kích thích nhiều đến mức có 8 bào thai (hầu hết đều sống sót đến lúc sinh ra) cùng phát triển trong bụng người mẹ được điều trị vô sinh bằng phương pháp này.

Hình. Sự tăng thân nhiệt trong thời gian ngắn sau rụng trứng
Một trong những nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến vô sinh ở phụ nữ là lạc nội mạc tử cung, tình trạng mô nội mạc gần giống như nội mạc tử cung được phát triển và thậm chí hành kinh trong hố chậu vùng xung quanh tử cung, vòi Fallope và buồng trứng. Lạc nội mạc tử cung gây xơ hóa những vùng trong hố chậu, và sự xơ hóa thường xảy ra xung quanh buồng trứng làm cho noãn không thể rụng vào ổ bụng. Thường thường, lạc nội mạc tử cung bít lấp ống Fallope, hoặc tại nơi kết thúc xơ hóa hoặc bất kì nơi nào có sự xơ hóa lan đến.
Một nguyên nhân khác nữa gây ra vô sinh ở phụ nữ là nhiễm trùng vòi Fallope; gây ra xơ hóa vòi Fallope, do đó làm tắc nghẽn lòng ống. Trước kia, hầu hết các nhiễm trùng là do hậu quả của nhiễm khuẩn lậu, nhưng với những tiến bộ trong y học, tình trạng này hiện đã giảm ở phụ nữ vô sinh.
Còn một nguyên nhân khác gây vô sinh ở phụ nữ là sự bất thường của dịch nhầy cổ tử cung. Bình thường khi rụng trứng, sự có mặt hormone estrogen khiến cho cổ tử cung tiết ra chất nhầy với tính chất đặc biệt có thể giúp cho tinh trùng di chuyển nhanh chóng để vào trong tử cung và hướng dẫn tinh trùng đi hướng lên trên vào tử cung qua lớp chất nhầy này. Sự bất thường của cổ tử cung, như những nhiễm trùng nhẹ, hoặc rối loạn sự kích thích hormone lên cổ tử cung có thể làm cho cổ tử cung tiết ra dịch nhầy và đặc quánh ngăn cản sự thụ tinh diễn ra.
Bài viết cùng chuyên mục
Vai trò của O2 trong điều hòa hô hấp: điều hòa hô hấp bởi thụ thể ngoại vi
Oxygen không có ảnh hưởng trực tiếp tới trung tâm hô hấp của não trong việc điều hòa hô hấp. Thay vào đó, nó tác động gần như hoàn toàn lên các hóa thụ thể ở ngoại vi nằm trong động mạch cảnh và thân động mạch chủ.
Chất dẫn truyền thần kinh: đặc điểm của nhóm phân tử lớn
Sự hình thành các chất dẫn truyền nhóm phân tử lớn này phức tạp hơn, nên số lượng của chúng nhỏ hơn so với nhóm phân tử nhỏ.
Vận chuyển lipids trong dịch cơ thể
Cholesterol và phospholipid được hấp thụ từ hệ thống ruột vào trong chylomicron. Vì thế dù chylomicron được cấu tạo chủ yếu từ triglycerides, chúng còn chứa phospholipid, cholesterol và apoprotein B.
Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm
Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.
Receptor: các loại và kích thích Receptor cảm giác
Danh sách và phân loại 5 nhóm receptor cảm giác cơ bản: receptor cơ học, receptor nhiệt, receptor đau, receptor điện từ, và receptor hóa học.
Chu chuyển của tim
Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.
Giải phẫu chức năng của vùng vỏ não nhận diện khuôn mặt
Người ta có thể tự hỏi tại sao rất nhiều diện tích vỏ não được dành cho nhiệm vụ đơn giản là nhận diện khuôn mặt. Tuy nhiên, hầu hết các công việc hàng ngày liên quan đến các liên kết với những người khác nhau.
Hormon điều hòa hoạt động của não
Bên cạnh điều khiển điều hòa hoạt động của não bởi xung động thần kinh, còn cơ chế sinh lý khác. Cơ chế này là tiết các hormon kích thích hay ức chế chất dẫn truyền thần kinh đến bề mặt não.
Điều hòa vận động: vai trò của phản xạ căng cơ
Phản xạ căng cơ có thể chia làm 2 loại: động và tĩnh. Phản xạ động là phản xạ sinh ra từ đáp ứng động của suốt cơ, gây ra bởi sự căng ra hay co lại một cách nhanh chóng.
Di chuyển của các dòng điện trong ngực quanh tim trong suốt chu kỳ tim
Xung động tim đầu tiên đến trong tâm thất trong vách liên thất và không lâu sau đó lan truyền đến mặt bên trong của phần còn lại các tâm thất, như thể hiện bởi vùng màu đỏ và điện âm ký hiệu trên hình.
Sự điều hòa bài tiết pepsinogen ở dạ dày
Tốc độ bài tiết pepsinogen - tiền chất của pepsin gây nên sự tiêu hóa protein - bị ảnh hưởng rất mạnh bởi lượng acid có mặt trong dạ dày. Ở những bệnh nhân mất khả năng bài tiết lượng acid cơ bản.
Sự kích thích bài tiết acid dạ dày
Khi thức ăn có chứa protein tới vùng tận cùng hang vị, một vài protein từ thức ăn tác động kích thích tế bào tiết gastrin của tuyến môn vị gây nên sự giải phóng Gastrin vào máu để sau đó được vận chuyển đến các tế bào ECL ở dạ dày.
Nhịp tim nhanh: nhịp xoang không bình thường
Thuật ngữ “Chứng nhịp tim nhanh” nghĩa là tim đập với tốc độ nhanh hoặc tim đập nhanh hơn 100 nhịp/phút ở người bình thường.
Vận chuyển chủ động các chất qua màng bào tương
Hình thức vận chuyển này được chia làm hai loại, vận chuyển chủ động nguyên phát, và vận chuyển chủ động thứ phát tùy theo năng lượng.
Vai trò của ion canxi trong co cơ
Nồng độ Ca nội bào tăng khi Ca++ đi vào trong tế bào qua kênh Ca trên màng tế bào hoặc được giải phóng từ lưới cơ tương. Ca++ gắn với camodulin (CaM) trở thành phức hợp Ca++-CaM, hoạt hóa chuỗi nhẹ myosin kinase.
Sinh lý thần kinh tiểu não
Tiểu não có chức năng điều hòa trương lực cơ, qua đó giữ thăng bằng cho cơ thể. Đồng thời, tiểu não được xem là một cơ quan kiểm soát
Kích thích: quá trình khởi đầu cho điện thế màng tế bào hoạt động
Kích thích điện âm yếu có thể không có khả năng kích thích một sợi. Tuy nhiên, khi điện áp của sự kích thích được tăng lên, tới một điểm mà tại đó sự kích thích không diễn ra.
Phát triển của phôi trong tử cung
Khi sự cấy diễn ra, các tế bào lá nuôi phôi và các tế bào lá nuôi lân cận (từ túi phôi và từ nội mạc tử cung) sinh sản nhanh chóng, hình thành nhau thai và các màng khác nhau của thai kì, phôi nang.
Rung nhĩ: nhịp thất không đều
Nút A-V sẽ không truyền nút xung thứ hai trong vòng 0,35s sau xung đầu tiên, xung thêm trong khoảng rộng từ 0-0,6s diễn ra trước một trong các xung của rung nhĩ không đều đến nút nhĩ thất.
Hệ thống Purkinje tâm thất của tim: dẫn truyền nhanh
Sự truyền tải nhanh điện thế hoạt động bởi các sợi Purkinje được cho là gây ra bởi một tính thấm rất cao của các khoảng trống tiếp giáp ở các đĩa xen kẽ giữa các tế bào kế tiếp cấu tạo nên các sợi Purkinje.
Sinh lý tiêu hóa ở ruột non
Khi bị tắc ruột, để đẩy nhũ trấp đi qua được chỗ tắc, nhu động tăng lên rất mạnh gây ra triệu chứng đau bụng từng cơn, và xuất hiện dấu hiệu rắn bò
Kiểm soát hoạt động của trung tâm hô hấp và các tín hiệu ức chế hít vào
Tính tới thời điểm này, đã biết về các cơ chế cơ bản tạo ra hiện tượng hít vào và thở ra, nhưng cũng rất cần tìm hiểu xem làm thế nào cường độ tín hiệu điều hòa có thể làm tăng hoặc giảm thông khí theo như cầu của cơ thể.
Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên
LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.
Ảnh hưởng của tập luyện thể thao trên cơ và hiệu suất cơ
Ở tuổi già, nhiều người trở nên ít vận động do đó cơ của họ teo rất nhiều. Trong những trường hợp này, tuy nhiên, tập luyện cho cơ có thể tăng sức mạnh cơ bắp hơn 100 %.
Phân tích thông tin thị giác: Con đường vị trí nhanh và chuyển động và Con đường mầu sắc và chi tiết
Các tín hiệu được dẫn truyền trong đường vị trí-hình dạng chuyển động chủ yếu đến từ các sợi thần kinh thị giác lớn M từ các tế bào hạch võng mạc type M, dẫn truyền tín hiệu nhanh chóng.
