- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Hoạt động tình dục của phụ nữ
Hoạt động tình dục của phụ nữ
Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Sự kích thích hoạt động sinh dục ở phụ nữ
Cũng như ở nam giới, quá trình trưởng thành hoạt động sinh dục ở nữ giới cũng dựa trên sự kích thich về tâm lý cũng như sự kích thích sinh dục tại vùng.
Nghĩ về tình dục có thể dẫn đến sự ham muốn tình dục và giúp nhiều cho việc thực hiện hoạt động sinh dục. Sự ham muốn dựa trên ham muốn tâm lý và ham muốn sinh lý, mặc dù sự ham muốn tình dục tăng lên tỉ lệ với lượng hormone sinh dục được tiết ra. Sự ham muốn cũng thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, đạt đỉnh khi gần rụng trứng, có thể vì nồng độ cao của estrogen được tiết ra trong giai doạn tiền rụng trứng.
Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn so với nam giới bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khoái cảm tình dục. Vị trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.
Như ở nam giới, tín hiệu thần kinh của cảm giác tình dục được vận chuyển đến các đốt tủy cùng của tủy sống thông qua các dây thần kinh từ bộ phận sinh dục ngoài và đám rối thần kinh cùng. Một khi những tín hiệu này đi vào tủy sống, chúng được vận chuyển lên não. Ngoài ra, phản xạ tại chỗ inter-grated của vùng tủy cùng và tủy lưng ít nhất cũng tham gia một phần tạo ra các đáp ứng tại chỗ tại bộ phận sinh dục phụ nữ.
Sự cương cứng và sự bôi trơn ở phụ nữ
Nằm xung quanh đường vào âm đạo và xung quanh âm vật là mô cương cứng gần giống như mô cương cứng của dương vật.
Mô cương cứng này, tương nhự như dương vật, được chi phối bởi thần kinh phó giao cảm đi xuyên qua thần kinh tạng vùng chậu từ đám rối cùng đến bộ phận sinh dục ngoài. Trong giai đoạn sớm của sự kích thích tình dục, tín hiệu phó giao cảm làm giãn các động mạch trong mô cương, có thể là hậu quả của việc bài tiết acetylcholin, nitric oxit và polypeptide vận mạch trong ruột - VIP tại đầu tận các dây thần kinh. Việc này dẫn đến sự ứ máu đột ngột trong mô cương làm cho cửa âm đạo bó chặt lấy dương vật; việc này giúp cho người đàn ông đạt được trạng thái cực khoái và xuất tinh.
Các tín hiệu phó giao cảm còn đi đến đôi tuyến Batholin nằm ở phí dưới hai môi bé và khiến chúng ngay lập tưc stieets chất nhầy vào trong âm vật. Chất nhầy này có vai trò bôi trơn trong khi quan hệ tình dục, mặc dù một phần chức năng bôi trơn đến từ chất nhầy được tiết ra từ biểu mô âm đạo và một phần nhỏ từ niệu đạo nam giới. Sự bôi trơn quan trọng đối với hoạt động quan hệ tình dục để đạt được sự vừa lòng về cảm giác xoa bóp hơn là cảm giác kích thích, cảm giác có thể được tạo ra khi kích thích âm đạo nhưng không tiết chất nhờn. Cảm giác xoa bóp tạo nên cực khoái bời vì kích thích thích hợp tạo phản xạ cuối cùng ở cả 2 người nam và nữ đều cực khoái.
Khoái cảm ở phụ nữ
Khi kích thích tại chỗ đạt cực đỉnh, và đặc biệt khi cảm giác tại chỗ được trợ giúp thêm bởi tín hiệu tâm lý thích hợp từ não bộ, các phản xạ bắt đầu tạo ra khoái cảm, hay còn gọi là điểm cực khoái của phụ nữ.
Điểm cực khoái của phụ nữ cũng tương tự cực khoái và phóng tinh ở nam giới, và nó có thể điều khiển sự thụ tinh của noãn. Thực ra, phụ nữ được biết đến hơi có phần dễ thụ tinh hơn khi đưa tinh trùng vào bằng quan hệ tình dục thông thường hơn là phương pháp nhân tạo, do đó cho thấy chức năng quan trọng của đỉnh cực khoái ở phụ nữ. Một vài lý do được nêu ra sau đây:
Thứ nhất, trong giai đoạn cực khoái, các cơ đáy chậu co thắt - là một phản xạ của tủy sống tương tự như hiện tượng phóng tinh ở nam giới. Có thể việc này khiến cho tử cung và vòi Fallope đi động nhiều hơn trong giai đoạn cực khoái, do đó giúp tinh trùng di chuyển lên qua tử cung đến với noãn; tuy nhiên thông tin này vẫn còn chưa được kiểm chứng.
Ngoài ra, cực khoái dường như làm giãn cở tử cung tới 30 phút, do đó giúp cho việc di chuyển của tinh trùng được dễ dàng hơn.
Thứ hai, ở một số động vật bậc thấp hơn, khi giao hợp khiến cho thùy trước tuyến yên tiết ra oxytocin; ảnh hưởng này được khởi đầu từ hạch hạnh nhân ở não sau đó đi qua vùng dưới đồi rrồi đến tuyến yên. Oxytocin gây ra tăng nhịp co cơ tử cung, làm tăng sự vận chuyển của tinh trùng. Một số tinh trùng đã chỉ ra rằng thời gian đi qua toàn bộ chièu dài vòi Fallope của bò là khoảng 5 phút, nhanh gấp 10 lần tốc độ bơi của tinh trùng bình thường có thể đạt được. Nhưng hiện tượng này trên người vẫn chưa được kiểm chứng.
Bên cạnh sự ảnh hưởng của cực khoái lên sự thụ tinh, cảm giác tình dục mãnh liệt được phát triển trong giai đoạn cực khoái cũng có thể đi lên não và gây co cơ mạnh trên toàn bộ cơ thể.
Nhưng sau trạng thái cực điểm sau hoạt động tình dục, sẽ mang đến cảm giác thỏa mãn kéo dài khoảng vài phút, được goi là thoái trào.
Thời điểm thích hợp cho thụ thai của phụ nữ
Thời điểm thích hợp cho thụ thai trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Noãn sống và có thể thụ tinh sau khi rụng khỏi nang trứng trong vòng 24 giờ. Do đó, tinh trùng bắt buộc phải có mặt sớm sau khi rụng trứng nếu muốn được thụ tinh.
Một số tinh trùng có thể sống được trong ống sinh dục phụ nữ khoảng 5 ngày. Do đó,để sự thụ tinh xảy ra, gaio hợp phải diễn ra trong vòng 4-5 ngày trước khi rụng trúng đến vài giờ sau khi trứng rụng. Do đó, giai đoạn thích hợp để thụ thai của phụ nữ khá ngắn, chỉ khoảng 4-5 ngày.
Phương pháp tránh thai theo nhịp
Một trong những phương pháp tránh thai được sử dụng trên thực tế là không quan hệ gần thời gian rụng trứng. Điều khó khăn của phương pháp này là biết được chính xác thời gian trứng rụng. Khoảng thời gian từ khi trúng rụng đến khi bắt đầu hành kinh khoảng 13-15 ngày. Do đó, nếu chu kỳ kinh nguyệt bình thường, kéo dài đúng 28 ngày, sự rụng trứng thường xảy ra trong khoảng ngày thứ 14±1. Nếu ngược lại, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 40 ngày, thì ngày rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 26±1, còn nếu chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 21 ngày thì ngày rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 7±1. Do đó, thường nên tránh quan hệ 4 ngày trước ngày dự tính rụng trứng đến 3 ngày sau thời gian dự đoán trứng rụng. Tuy nhiên biện pháp này chỉ dành cho những gười có độ dài chu kỳ kinh nguyệt không đổi.
Tỉ lệ thất bại của phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngoài ý muốn, có thể đến mức 20-25% mỗi năm.
Hormone ức chế sự thụ tinh thuốc ngừa thai
Đã từ lâu ta đã phát hiện ra rằng dùng estrogen hoặc progesteron, nếu với một lượng thích hợp trong nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt, có thể ức chế rụng trứng. Lý do là sự cung cấp thích hợp một trong 2 hormone có thể ngăn chặn đỉnh LH giai đoạn tiền rụng trứng được tiết ra bởi thùy trước tuyến yên, là một yếu tố qua trọng cho việc trứng rụng.
Lý do vì sao việc cung cấp estrogen hoặc progesterone lại ngăn chặn tạo đỉnh LH giai đoạn tiền rụng trứng vẫn chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, trên thí nghiệm gợi ý rằng ngày trước khi có đỉnh LH, có sự giảm đột ngột nồng độ estrogen được iết ra từ nang trứng, và đó có thể là một tín hiệu quan trọng tạo ra một feedback sau đó lên thùy trước tuyến yên và gây ra đỉnh LH. Sự cung cấp hormone giới tính (estrogen hoặc progesterone) có thể ngăn chặn việc giảm nồng độ hormone buồng trứng do đó không còn tín hiệu kích hoạt rụng trứng.
Vấn đề tìm ra phương pháp ức chế rụng trứng thông qua hormone đã được phát triển từ sự kết hợp thích hợp giữa estrogen và progestin làm ức chế rụng trứng nhưng không ra các tác dụng không mong muốn. Ví dụ, quá nhiều 1 trong 2 hormone có thể gây ra chảy máu bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, sử dụng một số progestin nhân tạo để thay thế progesterone, đặc biệt là 19-norsteroids, cùng với một lượng nhỏ estrogen thường ngăn chặn rụng trứng và gần như không ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt. Do đó, hầu như tất cả thuốc tránh thai nhằm điều khiển khả năng thụ tinh bao gồm một số sự kết hợp giữa estrogen ngoại sinh và progesterone ngoại sinh. Lý do chính chúng ta sử dụng các hormone nhân tạo là vì các hormone được tổng hợp ngoài tự nhiên cũng hầu như bị phân hủy hoàn toàn ở gan trong một thời gian ngắn sau khi chúng đi từ ống sinh dục vào hệ tĩnh mạch cửa. Tuy nhiên, nhiều hormone nhân tạo có thể có khuynh hướng kháng lại sự phân hủy ở gan, vì thế nên dùng thuốc dạng uống.
Hai loại hormone estrogen nhân tạo hay được dùng nhất là estradiol và mestranol, còn các progesterone nhân tạo hay dùng là norethindrone, norethynodrel, ethynodiol, and norgestrel. Thuốc thường được bắt đầu sử dụng vào giai đoạn sớm của chu kỳ kinh nguyệt và tiếp tục dùng sau thời điểm trứng rụng trên tính toán xảy ra. Nếu quên thuốc, đợi xảy ra hành kinh xong và bắt đầu một chu kì thuốc mới.
Tỉ lệ thất bại của phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngoài ý muốn, khoảng 8-9% mỗi năm.
Một số nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở phụ nữ
Khoảng 5-10% phụ nữ bị vô sinh. Đôi khi, không thể tìm được nguyên nhân gây vô sinh trên thực thể, khi đó chúng ta phải thừa nhận rằng nguyên nhân vô sinh là do chức năng sinh lý sinh sản hoặc do sự phát triển bất thường của gen của noãn.
Nguyên nhân phổ biến dẫn đến vô sinh ở phụ nữ là do không thể rụng trứng. Có thể là hậu quả của sự bài tiết thiếu các hormone điều hòa tuyến sinh dục, hơn nữa những trường hợp có sự kích thích hormone quá mức thường không thích hợp để gây ra rụng trứng, hoặc có thể là hậu quả từ buồng trứng bất thường nên trứng không thể rụng được. Ví dụ, buồng trứng có vỏ bọc dày bên ngoài làm cho sụ rụng trứng khó có thể diễn ra.
Bởi vì tỉ lệ chu kỳ kinh nguyệt không rụng trứng gặp nhiều ở những phụ nữ vô sinh, một số phương pháp đặc biệt được sử dụng để xác định chu kì nào có trứng rụng. Những phương pháp này dựa trên sự tác động của progesterone lên cơ thể, vì sự tăng bài tiết progesterone thường xảy ra vào nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt. Khi không có sự tăng bài tiết progesterone, chu kì đó được coi là không có rụng trứng.
Một trong những test này là đơn giản chỉ phân tích sự tăng đột ngột của pregnanediol, sản phẩm phân hủy của progesterone trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt. Nếu không có chất này, tức là sự rụng trứng đã thất bại. Một test phổ biến khác là theo dõi thân nhiệt người phụ nữ trong suốt chu kỳ kinh nguyệt. Sự bài tiết progesteron trong nửa sau chu kỳ kinh nguyệt làm thân nhiệt tăng lên khoảng 0,5 độ C; thân nhiệt sẽ tăng lên đột ngột vào lúc sự rụng trứng xảy ra.
Không rụng trứng do nguyên nhân bài tiết thiếu hormone điều hòa tuyến sinh dục từ tuyến yên đôi khi co thể điều trị bằng cung cấp hormone điều hòa tuyến sinh dục từ nhau thai người vào một thời điểm thích hợp; hormone này được chiết xuất từ rau thai người. Hormone này, mặc dù được tiết ra từ rau thai, nhưng có tác dụng gần giống như LH và do đó gây kích thích mạnh mẽ buồng trứng. Tuy nhiên, nếu dùng quá liều hormone này có thể làm cho nhiều nang tửng cùng phát triển cùng một lúc, điều này tạo ra những trường hợp sinh đôi, sinh ba,… Có thể kích thích nhiều đến mức có 8 bào thai (hầu hết đều sống sót đến lúc sinh ra) cùng phát triển trong bụng người mẹ được điều trị vô sinh bằng phương pháp này.
Hình. Sự tăng thân nhiệt trong thời gian ngắn sau rụng trứng
Một trong những nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến vô sinh ở phụ nữ là lạc nội mạc tử cung, tình trạng mô nội mạc gần giống như nội mạc tử cung được phát triển và thậm chí hành kinh trong hố chậu vùng xung quanh tử cung, vòi Fallope và buồng trứng. Lạc nội mạc tử cung gây xơ hóa những vùng trong hố chậu, và sự xơ hóa thường xảy ra xung quanh buồng trứng làm cho noãn không thể rụng vào ổ bụng. Thường thường, lạc nội mạc tử cung bít lấp ống Fallope, hoặc tại nơi kết thúc xơ hóa hoặc bất kì nơi nào có sự xơ hóa lan đến.
Một nguyên nhân khác nữa gây ra vô sinh ở phụ nữ là nhiễm trùng vòi Fallope; gây ra xơ hóa vòi Fallope, do đó làm tắc nghẽn lòng ống. Trước kia, hầu hết các nhiễm trùng là do hậu quả của nhiễm khuẩn lậu, nhưng với những tiến bộ trong y học, tình trạng này hiện đã giảm ở phụ nữ vô sinh.
Còn một nguyên nhân khác gây vô sinh ở phụ nữ là sự bất thường của dịch nhầy cổ tử cung. Bình thường khi rụng trứng, sự có mặt hormone estrogen khiến cho cổ tử cung tiết ra chất nhầy với tính chất đặc biệt có thể giúp cho tinh trùng di chuyển nhanh chóng để vào trong tử cung và hướng dẫn tinh trùng đi hướng lên trên vào tử cung qua lớp chất nhầy này. Sự bất thường của cổ tử cung, như những nhiễm trùng nhẹ, hoặc rối loạn sự kích thích hormone lên cổ tử cung có thể làm cho cổ tử cung tiết ra dịch nhầy và đặc quánh ngăn cản sự thụ tinh diễn ra.
Bài viết cùng chuyên mục
Cơ chế hô hấp trong khi vận động
Phân tích nguyên nhân gây ra sự gia tăng thông khí trong quá trình vận động, một trong những nguyên nhân gây tăng thông khí là do tăng CO2 máu và hydrogen ions, cộng với sự giảm O2 máu.
Sự trưởng thành và thụ tinh của trứng: quyết đinh giới tính thai nhi
Sau khi phóng tinh dịch vào trong âm đạo trong quá trình giao hợp, một số tinh trùng sẽ di chuyển trong vòng 5 đến 10 phút theo hướng đi lên từ âm đạo đến tử và vòi tử cung, đến đoạn bóng của vòi tử cung.
Kích thích riêng và đồng loạt bởi hệ giao cảm và phó giao cảm
Trong một số trường hợp, hầu hết toàn bộ các phần của hệ thần kinh giao cảm phát xung đồng thời như một đơn vị thống nhất, hiện tượng này được gọi là sự phát xung đồng loạt.
Giải phóng năng lượng từ Glucose theo con đường Pentose Phosphate
Con đường Pentose Phosphate có thể cung cấp năng lượng một cách độc lập với tất cả các enzym của chu trình citric acid và do đó là con đường thay thế cho chuyển hóa năng lượng khi có bất thường của enzym xảy ra trong tế bào.
Đái tháo đường type 1: thiếu hụt sản xuất insulin
Tổn thương tế bào beta đảo tụy hoặc các bệnh làm suy yếu sản xuất insulin có thể dẫn đến bệnh tiểu đường type 1. Nhiễm virus hoặc các rối loạn tự miễn có thể tham gia vào việc phá hủy tế bào beta.
Đại cương sinh lý nước điện giải trong cơ thể
Nước là thành phần đơn độc lớn nhất của cơ thể. Trẻ em có tỷ lệ phần trăm nước so với trọng lượng cơ thể cao nhất, chiếm 75%
Điều hòa glucose máu
Khi lượng đường trong máu tăng lên đến một nồng độ cao sau bữa ăn và insulin tiết ra cũng tăng lên, hai phần ba lượng đường hấp thu từ ruột là gần như ngay lập tức được lưu trữ dưới dạng glycogen trong gan.
Áp lực thủy tĩnh mao mạch
Dịch đã được lọc vượt quá những gì được tái hấp thu trong hầu hết các mô được mang đi bởi mạch bạch huyết. Trong các mao mạch cầu thận, có một lượng rất lớn dịch.
Cử động định hình của mắt: cử động làm cho mắt tập trung
Vận động chú ý tự ý được điều hòa bởi một vùng vỏ não ở hai bên vùng tiền vận động của thùy trán. Mất chức năng hai bên hoặc tổn thương vùng này gây khó khăn cho việc mở khóa mắt.
Các hormone điều hòa tuyến sinh dục và những ảnh hưởng lên buồng trừng
Cả hai FSH và LH kích thích những tế bào đích tại buồng trứng bằng cách gắn đặc hiệu với các receptor FSH và LH trên màng các tế bào buồng trứng. Sau đó, những receptor được kích hoạt làm tăng khả năng bài tiết và thường kèm theo khả năng phát triển cũng như tăng sinh tế bào.
Sự khuếch tán của khí qua màng hô hấp: sự trao đổi khí CO2 và O2
Tổng lượng máu có trong mao mạch phổi dạo động từ 60ml tới 140ml, ta thấy với một lượng nhỏ thể tích máu mao mạch mà tại mao mạch lại có tổng diện tích lớn nên thế sẽ rất dễ dàng cho sự trao đổi khí CO2 và O2.
Tăng huyết áp: gây ra bởi sự kết hợp của tăng tải khối lượng và co mạch
Tăng huyết áp di truyền tự phát đã được quan sát thấy ở một số chủng động vật, bao gồm các chủng chuột, thỏ và ít nhất một chủng chó.
Các tế bào tiết nhầy bề mặt dạ dày
Chất nhầy nhớt bao phủ biểu mô của dạ dày dưới dạng một lớp gel thường dày hơn 1 mm, do đó cung cấp lớp vỏ bọc bảo vệ quan trọng cho thành của dạ dày, cũng như góp phần bôi trơn để sự vận chuyển thức ăn được dễ dàng.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau của trục dưới đồi tuyến yên buồng trứng
Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, và được gọi là chu kì không rụng trứng. Các giai đoạn của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên trứng không rụng làm cho hoàng thể không phát triển.
Vai trò của insulin trong chuyển đổi carbohydrate và chuyển hóa lipid
Khi nồng độ glucose máu cao, insulin được kích thích bài tiết và carbohydrate được sử dụng thay thế chất béo. Glucose dư thừa trong máu được dự trữ dưới dạng glycogen và chất béo ở gan, glycogen ở cơ.
Cung lượng tim: nghiên cứu định lượng
Tăng khả năng bơm máu cùng với tăng áp suất khoang màng phổi làm cung lượng tim đạt đỉnh vì tăng hoạt động tim nhưng đường cong lại dịch sang phải vì áp suất khoang màng phổi tăng.
Tác dụng của corticoid lên chuyển hóa chất béo
Tăng huy động chất béo do cortisol giúp hệ thống chuyển hóa của tế bào sử dụng glucose từ sử dụng acid béo để sinh năng lượng trong khi đói hoăc các căng thẳng khác.
Sinh lý học các chất điện giải trong cơ thể
ADH tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Khi Na+ máu dưới 135 mEq/l, thuỳ sau tuyến yên ngừng tiết ADH gây bài xuất nhiều nước tiểu loãng.
Trao đổi chất của cơ tim
ATP này lần lượt đóng vai trò như các băng tải năng lượng cho sự co cơ tim và các chức năng khác của tế bào. Trong thiếu máu mạch vành nặng, ATP làm giảm ADP, AMP và adenosine đầu tiên.
Chức năng thưởng và phạt của hệ limbic
Hiện tượng kích động được kìm hãm bởi các xung động ức chế từ nhân bụng của vùng dưới đồi. Hơn nữa, hải mã và vùng vỏ limbic trước, đặc biệt là hồi đài và hồi dưới thể chai giúp kìm hãm hiện tượng kích động.
Điều hòa lưu lượng máu bằng những thay đổi trong mạch máu mô
Sự tái tạo vật chất của mạch xảy ra để đáp ứng với nhu cầu của mô. Sự tái cấu trúc này xảy ra nhanh trong vòng vài ngày ở những động vật non. Nó cũng xảy ra nhanh ở những mô mới lớn như mô sẹo, mô ung thư.
Vòng phản xạ thần kinh: với các tín hiệu đầu ra kích thích và ức chế
Các sợi đầu vào kích thích trực tiếp lên đường ra kích thích, nhưng nó kích thích một nơ-ron ức chế trung gian (nơron 2), là nơ-ron tiết ra một loại chất dẫn truyền thần kinh khác để ức chế đường ra thứ hai từ trạm thần kinh.
Chức năng sinh lý nội tiết của thận
Erythropoietin có tác dụng kích thích tế bào đầu dòng sinh hồng cầu, erythroid stem cell, chuyển thành tiền nguyên hồng cầu,proerythroblast, và làm tăng sinh hồng cầu.
Lắng đọng và tái hấp thu làm mới của xương
Tạo cốt bào được tìm thấy trên bề mặt ngoài của xương và trong các hốc xương. Xương liên tục tiêu hủy do sự có mặt của hủy cốt bào, là 1 loại tế bào lớn, có khả năng thực bào, đa nhân là các dẫn xuất của bạch cầu đơn nhân hoặc các tế bào giống bạch cầu đơn nhân hình thành trong tủy xương.
Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm
Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.