Rửa tay thường quy phòng ngừa nhiễm khuẩn

2015-04-02 08:44 AM

Vệ sinh đôi tay là biện pháp quan trọng nhất trong việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện vì đôi bàn tay là phương tiện quan trọng làm lan truyền các tác nhân gây nhiễm khuấn đã được nghiên cứu rất nhiều và không còn là vấn đề tranh cãi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Vệ sinh đôi tay là biện pháp quan trọng nhất trong việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện vì đôi bàn tay là phương tiện quan trọng làm lan truyền các tác nhân gây nhiễm khuấn đã được nghiên cứu rất nhiều và không còn là vấn đề tranh cãi (Standard principle for preventing hospital - acquyred infection. J.Hostp infect). Kết quả nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng rửa tay nhiều khi vẫn chưa được thực hiện đúng cách, chủ yếu do bận hoặc bồn rửa tay không đủ.

Trên thế giới, nhiễm khuẩn bệnh viện có tỷ lệ mắc cao. Theo điều tra của Mỹ (1998 - 2001) 5-10% người bệnh nhập viện mắc phải nhiễm trùng bệnh viện: có 2 triệu người mắc trên một năm; Vì các trường hợp nhiễm trùng bệnh viện xảy ra ở khoa chăm sóc đặc biệt. Hằng năm có khoảng 90 nghìn người tử vong do nhiễm trùng bệnh viện; chi phí hàng năm tới 4,5 - 5,7 tỷ USD.

Theo số liệu điều tra của Tổ chức Y tế Thê giới tại 47 bệnh viện của 14 nước đại diện cho các khu vực khác nhau, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là 8,7%. Vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế là một trong những giải pháp hàng đầu được Tố chức Y tế Thế giới khuyến cáo nhằm tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện và phòng ngừa các bệnh lây truyền cho người bệnh và nhân viên y tế trong quá trình cung cấp dịch vụ y tế.

Lý thuyết liên quan

Trên da tay thường có cả hai loại vi khuẩn: vi khuẩn thường trú và vi khuẩn vãng lai. Các vi khuẩn thường trú có độc tính thấp, ít khi gây nhiễm trùng qua các tiếp xúc thông thường, song chúng có thể gây độc tính qua các thủ thuật xâm lấn vào người bệnh. Các vi khuẩn vãng lai là những tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện phổ biến, thường tồn tại trên da không quá 28 tiếng. Chúng không có khả nâng nhân lên trên da và dễ bị loại bỏ bằng rửa tay với nước và xà phòng.

Trong quá trình chăm sóc và điều trị, đôi bàn tay của nhân viên y tế rất dễ bị ô nhiễm với các tác nhân gây bệnh. Mức độ ô nhiễm phụ thuộc vào loại thao tác và thời gian thực hiện thao tác trên người bệnh. Ví dụ: sau các thao tác như xoay trở người bệnh, bắt mạch, đo huyết áp, lấy nhiệt độ cơ thể, động chạm vào vai, háng người bệnh, trên đôi tay sẽ có 100 đến 1000 khuẩn lạc Klebsiella SPP. Sau các hoạt động như tiêm, truyền tĩnh mạch, chăm sóc đường thở, sau khi tiếp xúc với các chất bài tiết của người bệnh, trên dôi tay sẽ có 300 đơn vị khuẩn lạc (UFs).

Rửa tay thường quy được áp dụng trong các trường hợp sau

Trước và sau khi mang găng.

Trước và sau khi chăm sóc mỗi người bệnh.

Trước khi chuẩn bị dụng cụ.

Trước khi chuẩn bị thức ăn.

Trước khi di chuyển bàn tay từ vùng cơ thể nhiễm khuẩn sang vùng sạch trên cùng một người bệnh.

Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết của người bệnh.

Sau khi tiếp xúc với các đồ vật xung quanh người bệnh.

Sau khi tiếp xúc với các dụng cụ vừa chăm sóc người bệnh.

Mục đích rửa tay thường quy

Làm sạch và loại bỏ vi khuẩn vãng lai trên bàn tay.

Đám bảo an toàn cho người bệnh và nhân viên y tế.

Góp phần làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện.

Rửa tay có thể thực hiện được với điều kiện

Các dung dịch rửa tay: xà phòng nước, xà phòng có chất diệt khuẩn, cồn 70 có glycerin v.v...

Xà phòng và nước rất có hiệu quả trong loại trừ các vết bẩn và các vi khuẩn vang lai. Song dôi bàn tay có thể trở thành phương tiện làm lây truyền nhiễm khuẩn do bị nhiễm khuẩn từ xà phòng không có chất sát khuẩn - Các chất kháng khuẩn có hiệu quả trong việc loại bỏ các vết bẩn và hiệu quả hơn là nước và xà phòng trong việc loại bỏ các vi khuẩn thường trú (Clinical Nursing Procedures. Sixth edition, The Royal Marsden).

Việc chà xát tay bằng cồn (alcohol-based handrub) không có tác dụng trong việc loại bỏ các vết bẩn, nhưng lại có hiệu quả tiêu diệt các vi khuẩn vãng lai hơn các phương pháp rửa tay thông thường (time-consuming had-wash methods). Vì vậy, đôi bàn tay cần phải được rửa sạch (các vết bẩn, chất hữu cơ) trước khi chà xát tay bằng cồn (Standard principle for preventing hospital-acquyred infection. J Hostp infect).

Bồn rửa tay có vòi nưỏc chảy, có cần gạt bằng tay hoặc bằng chân. Nước rửa tay phải sạch và ấm.

Có khăn hoặc máy sấy để làm khô tay sau mỗi lần rửa.

Quy trình kỹ thuật

Chuẩn bị phương tiện

Nước sạch, tốt nhất là nước nóng, dung dịch xà phòng, khăn lau tay sạch.        

Đánh giá nguy cơ nhiễm khuẩn cùa người bệnh

Xem xét nghiệm (số lượng bạch cầu..), tình trạng thương tổn của người bệnh, chẩn đoán của bác sĩ.

Kiểm tra tay

Tháo đổ trang sức ở tay. Cắt móng tay nếu dài. Xắn tay áo lên quá khuỷu.          

Làm ướt tay dưới vòi nước chảy

Mở nước bằng khuỷu tay hoặc chân. Để bàn tay và cánh tay thấp hơn khuỷu.

Lấy xà phòng vào lòng bàn tay

Lấy khoảng 3 - 5ml dung dịch rửa tay vào lòng bàn tay. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau.

Làm sạch mu bàn tay và kẽ ngoài ngón tay

Dùng lòng bàn tay này chà xát lên mu bàn tay và kẽ ngón tay bàn tay kia và ngược lại.

Làm sạch lòng bàn tay và kẽ trong ngón tay

Hai lòng bàn tay chà xát vào nhau và vào kẽ trong các ngón tay.

Làm sạch mặt ngoài mu các ngón tay

Mu các ngón tay này chà xát vào lòng bàn tay kia và ngược lại.

Làm sạch ngón cái

Ngón cái cùa bàn tay này chà xát trong lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi xoay lại và ngược lại.

Làm sạch các đầu ngón tay

Chụm 5 đấu ngón tay của tay này chà xát vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi xoay lại và ngược lại.

Làm sạch xà phòng

Rửa sạch xà phòng ở tay dưới vòi nước chảy.

Khoá vòi nước

Khoá vòi nước bằng khuỷu tay/chân/bằng khăn. Bỏ khăn vào nơi quy định.

Làm khô tay

Lau khô tay bằng khăn sạch hoặc giấy hoặc máy sấy, lau từ đầu ngón tay trước đến bàn tay và vùng cổ tay.

Chú ý - Mỗi bước chà 5 lần. Thời gian rửa tay tối thiểu 30 giây.

Bài viết cùng chuyên mục

Phát thuốc cho bệnh nhân và ghi chép

Lưu ý sử dụng thuốc cho trẻ em và người cao tuổi vì đặc điểm sinh lý cơ thể trên lứa tuổi này ảnh hưởng nhiều đến khả năng hấp thu, chuyển hoá và đào thải thuốc.

Kỹ thuật pha thuốc cho người bệnh

Điều dưỡng cần phải biết rõ quy trình pha thuốc và thận trọng trong thao tác để có được một bơm tiêm thuốc không bị nhiễm khuẩn và không làm giảm liều lượng của thuốc.

Kỹ thuật đặt kim luồn ngoại vi

Kỹ thuật tiêm, truyền tĩnh mạch được thực hiện bằng kim luồn ngoại vi là phương pháp tiêm, truyền tĩnh mạch sử dụng loại kim làm bằng ống nhựa mềm luồn vào trong lòng tĩnh mạch.

Thay băng rửa vết thương sạch

Vết thương sạch là vết thương ngoại khoa, không bị nhiễm khuẩn, không có biểu hiện viêm (không có dịch rỉ viêm), quá trình điều trị có tiến triển tốt, tổ chức hạt đang phát triển hoặc đang trong giai đoạn lên da non.

Thay băng rửa vết thương nhiễm khuẩn

Vết thương nhiễm khuẩn là vết thương có dấu hiệu của viêm (sưng, nóng, đỏ, đau, có dịch rỉ viêm chảy ra từ vết thương). Nếu nhiễm khuẩn kéo dài thì có mủ hoặc tổ chức hoại tử.

Thay băng vết thương và cắt chỉ

Khâu da được chỉ định trong các trường hợp phẫu thuật, trong chấn thương phần mềm trước 6 giờ. Thường ta sử dụng kim chỉ để khâu, có trường hợp sử dụng móc bấm bằng kim loại (móc bấm Michel), móc có tác dụng bấm ép hai mép da vào nhau thay cho chỉ khâu.

Kỹ thuật hút đờm rãi

Kỹ thuật hút mở là kỹ thuật hút có sử dụng ống hút vô khuẩn và ống hút này được mở ra tại thời điểm hút, người điều dưỡng phải mang găng vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật hút.

Thở ô xy qua mũi và ống mở khí quản

Liệu pháp oxy được chỉ định cho các người bệnh có biểu hiện thiếu oxy (nồng độ oxy thấp hoặc độ bão hòa oxyhemoglobin trong máu động mạch thấp).

Kỹ thuật sơ cứu gãy xương

Cho dù là gãy xương kín hay gãy xương hở thì công tác sơ cứu gãy xương cũng phải được tiến hành nhanh chóng chính xác tại nơi xảy ra tai nạn.

Các biện pháp cầm máu tạm thời

Trước khi tiến hành sơ cứu mạch máu, cần phải nhận định được vết thương mạch máu thuộc động mạch, tĩnh mạch hay mao mạch.

Kỹ thuật băng

Khi sử dụng băng cuộn nếu băng không đúng sẽ gây ra các thương tổn vùng mô bên dưới, vùng lân cận hoặc tạo ra sự khó chịu cho nạn nhân.

Sát khuẩn tay bằng dung dịch cồn

Trước khi di chuyên bàn tay từ vùng cơ thể nhiễm khuẩn sang vùng sạch trên cùng một người bệnh và bàn tay không dính máu, không dính dịch tiết của người bệnh.

Vệ sinh vùng hậu môn sinh dục cho người bệnh

Những người bệnh nặng không tự chăm sóc vệ sinh được. Hằng ngày ta cần giúp họ rửa sạch vùng hậu môn sinh dục, nhất là khi người bệnh dại, tiểu tiện không tự chủ.

Kỹ thuật mang găng vô khuẩn

Trên lâm sàng người ta thấy một tỷ lệ lớn các mầm bệnh trong các bệnh phẩm đồng nhất với các vi khuẩn cư trú trên da tay, nó được coi như một chỉ số quan trọng trong việc xác nhận nhiễm khuân bệnh viện.

Kỹ thuật rửa tay vô khuẩn ngoại khoa

Rửa tay ngoại khoa được áp dụng bắt buộc cho phẫu thuật viên và người phụ mổ trước khi tiến hành phẫu thuật, chuẩn bị dụng cụ vô khuẩn hay thực hiện các chăm sóc đặc biệt.

Kỹ thuật mặc và cởi áo choàng vô khuẩn

Người phụ khi mặc áo không tiếp xúc tay với mặt ngoài của áo và tay của người mặc. Áo bị coi là nhiễm khuẩn khi bị chạm vào người phụ giúp.

Chuẩn bị dụng cụ tiệt khuẩn y tế

Đảm bảo không cho vi sinh vật, bụi và hơi ẩm xâm nhập. Dụng cụ trong gói/hộp phải được giữ nguyên tình trạng vô khuẩn từ sau khi tiệt khuẩn đến khi dùng.

Kỹ thuật khử khuẩn tiệt khuẩn dụng cụ y tế

Hấp ướt: là phương pháp thông thường và thích hợp nhất để tiệt uẩn cho tất cá các dụng cụ dùng trong các thủ thuật xâm lấn chịu được nhiệt và độ ẩm.

Sử dụng bô vịt, bô bẹt cho bệnh nhân

Khi người bệnh không thể rời khỏi giường để đi đến nhà vệ sinh đi tiêu tiểu, người điều dưỡng cần cung cấp bô dẹt để họ sử dụng tại giường. Trong các dụng cụ sử dụng để bài tiết tại giường có hai loại bô dẹt là phù hợp.

Quy trình làm sạch và rửa dụng cụ khám chữa bệnh

Mục đích của cọ rửa dụng cụ là để loại bỏ toàn bộ các chất bẩn dính trên dụng cụ, nơi ẩn náu của vi khuẩn tránh tiếp xúc với các hoá chất sát khuẩn.

Hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh

Dinh dưỡng là một nhu cầu cơ bản của mỗi người, nhưng đối vối người bệnh do ảnh hưởng của bệnh tật nên thường cảm thấy ăn không ngon miệng nhất là những người bệnh trong giai đoạn ủ bệnh và toàn phát bệnh.

Kỹ thuật đặt ống thông dạ dày

Trên lâm sàng thường gặp đặt ống thông dạ dày trong hỗ trợ việc nuôi dưỡng, cho thuốc người bệnh đối với những người bị mất khả năng ăn uống bằng đường miệng.

Đặt ống thông vào trực tràng

Trong điều trị người ta đưa nước, chất dinh dưỡng, thuốc vào làm đại tràng giãn ra để làm lỏng phân và có thể đưa các chất dinh dưỡng, thuốc vào cơ thể qua đường ruột.

Kỹ thuật thụt tháo cho bệnh nhân

Thụt tháo là một phương pháp làm sạch phân ở đại tràng, bằng cách kích thích nhu động ruột thông qua sự truyền một thể tích lớn dung dịch vào đại tràng, kích thích tại chỗ của trực tràng và đại tràng sigma.

Kỹ thuật thông tiểu nữ

Tính chất nước tiểu bình thường là trong. Nước tiểu mới bài xuất ra thường sạch, không có cặn lắng, nước tiểu dẫn lưu qua ống thông thường trong không có cặn lắng nhưng thỉnh thoảng có một vài mảnh vụn niêm mạc.

Kỹ thuật thông tiểu nam

Niệu đạo là đường dẫn nước tiểu đến bàng quang, ở nam, niệu đạo dài khoảng 20 cm dùng để vận chuyển nước tiểu và tinh dịch.

Dẫn lưu nước tiểu liên tục

Dẫn nước tiểu liên tục là dùng ống thông cố định, lưu giữ một thời gian để dẫn nước tiểu từ bàng quang vào túi đựng nước tiểu vô khuẩn.

Kỹ thuật rửa bàng quang liên tục

Đối với người bệnh có bàng quang bị nhiễm trùng, rửa bàng quang bằng cách truyền nhỏ giọt dung dịch rửa kèm kháng sinh.

Điều dưỡng ghi chép và theo dõi lượng dịch vào ra của bệnh nhân

Dịch vào bao gồm tất cả dịch hiển nhiên như là nước, sữa, nước trái cây, cà phê, trà, và toàn bộ khối lượng dịch đường tĩnh mạch, bao gồm truyền máu và bất cứ loại dịch nào được đưa vào theo đường tĩnh mạch.