- Trang chủ
- Dược lý
- Dược lý học đại cương dành cho bác sỹ đa khoa
- Số phận của thuốc trong cơ thể: dược lý học y khoa
Số phận của thuốc trong cơ thể: dược lý học y khoa
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Vào cơ thể, thuốc tất yếu phải đi qua các quá trình hấp thu, phân phối, chuyến hóa, tích lũy, thải trừ.
Hấp thu
Qua da: Thuốc dùng ngoài da (thuốc mỡ, cao dán, thuốc xoa bóp...) có tác dụng nông tại chỗ như thuốc sát khuẩn, nhưng có khi thấm qua hàng rào biếu bì đế vào sâu bên trong, ví dụ tinh dầu...
Da lúc thường là chiếc áo bảo hộ, có bã nhờn, mồ hôi chống chọi với tác nhân lý hóa bên ngoài. Lớp sừng giúp cho hàng rào biểu bì vững chắc, lớp sừng cũng dự trữ được một số thuốc, ngay cả sau khi tắm rửa, ví dụ bôi thuốc mỡ chứa hydrocortison. Nhưng có thuốc hấp thu được qua da để phát huy tác dụng toàn thân và gây độc, khi dùng cần lưu ý, ví dụ iod, much kim loại nặng, tinh dầu, rượu, thuốc diệt côn trùng (lân hữu cơ, DDT, lindan...).
Xoa bóp mạnh sau khi bôi thuốc sẽ làm tăng tốc độ hấp thu thuốc, như sau khi bôi cồn xoa bóp, metyl salicylat...
Da tổn thương (mất lớp sừng) như bỏng, vết thương diện rộng sẽ làm cho thuốc và chất độc dễ xâm nhập, tạo tác dụng toàn thân. Da trẻ sơ sinh có lớp sừng mỏng manh, tính thấm mạnh, dễ gây ngộ độc thuốc, ví dụ cồn xoa bóp không dìmg cho trẻ sơ sinh.
Dạ dày: Hấp thu thuốc ở dạ dày bị hạn chế vì niêm mạc ít được tưới máu. Thuốc nào hấp thu được sẽ hấp thu dễ khi đói (dạ dày rỗng). Nếu uống thuốc kích ứng niêm mạc dạ dày, thì nên dùng trong bữa ăn, như aspirin, paracetamol, sắt sulfat...
Ruột non: Niêm mạc ruột non có bề ặt rộng lớn, được tưới máu nhiều. Nhu động ruột thường xuyên giúp nhào nặn, phân phôi thuốc đều trên diện tích rộng lớn đó.
Vì vậy ruột non là nơi hấp thu thuốc rất tốt.
Tăng lượng máu (nằm yên) giúp thuốc dễ hấp thu. Ngược lại với ở dạ dày, tác động nào làm giảm năng lực vận động ruột sẽ kéo dài thời gian tiếp xúc giữa thuốc với niêm mạc ruột, làm cho ruột hấp thu thuốc tốt hơn. Ngược lại, thuốc nhuận tràng, thuốc tẩy làm giảm hấp thu thuốc, thúc đẩy tàng thải những thuốc khác.
Ruột già: Khả nàng hấp thu thuốc ở đây kém, vì diện tích ruột già hẹp. Nếu đặt thuốc vào trực tràng (như dạng thuốc đạn), thì do trực tràng chứa ít dịch, nên nồng độ thuốc sẽ đậm đặc và thuốc hấp thu với lượng đáng kể, có khi m ạnh hơn khi uống.
Ta dùng dạng thuốc đạn để chữa bệnh tại chỗ, như khi viêm trực - kết tràng, trĩ, táo bón..., cũng dùng đế đạt tác dụng toàn thân, như đặt viên đạn chứa thuốc ngủ, thuốc hạ sốt giảm dau...
Với thuốc khó uống, mùi vị khó chịu hoặc khi không uống được (như hôn mê, co thắt thực quản, nôn, tắc ruột....) thì đặt thuốc vào trực tràng rất tốt, nhất là cho trẻ em. Cầ n chú ý ở trẻ em, đặt thuốc dễ gây ngộ độc, vì chóng đạt nồng độ cao trong máu, cũng cần tránh dùng nhầm thuốc đạn của người lớn mà lại dùng cho trẻ em.
Đường dưới da: Tiêm dưới da, thuốc qua mô liên kết, thâm qua nội mô mao mạch và đạt tác dụng toàn thân. Có thể làm tăng tác dụng thuốc, nếu tiêm dưới da kết hợp với thuốc co mạch, ví dụ kéo dài tác dụng gây tê của procain (novocain) bằng cách trộn với adrenalin (làm co mạch tại chỗ); hoặc làm giảm tính tan trong nước của thuốc, ví dụ phức hợp penicilin - procain không tan khi tiêm dưới da, phức hợp này sẽ hấp thu chậm và penicilin được phân tán dần dần vào cơ thể.
Qua cơ (tiêm bắp thịt): Tuần hoàn máu trong cơ vân được đặc biệt phát triển.
Khi cơ hoạt động, lòng mao mạch giãn rộng, khiến diện tích trao đổi và lưu thông máu lúc ấy tăng lên hàng trăm lần để đáp ứng như cầu cần cho hoạt động chức năng của cơ; vì vậy thuốc hấp thu qua cơ nhanh hơn khi tiêm dưới da.
Cơ ít sợi cảm giác hơn ở dưới da, nên tiêm bắp ít đau hơn tiêm dưới da, dùng cho dung dịch nước, dung dịch dầu. Tuyệt đôl không tiêm bắp những chất gây hoại tử như calci clorid, ouabain. Cần lưu ý khi tiêm bắp có thể chọc phải tĩnh mạch, nhất là khi tiêm dung dịch dầu.
Qua đường tĩnh mạch: Qua tĩnh mạch, thuốc hấp thu nhanh, hoàn toàn, tác dụng nhanh (sau khi tiêm 15 giây), liều dùng chính xác, kiểm soát được, vì có thể ngừng tiêm ngay nếu người bệnh có phản ứng bất thường. Còn có thể tiêm tĩnh mạch những chất không dùng dược bằng đường khác (như các chất thay th ế huyết tương) hoặc chất gây hoại tử khi tiêm bắp.
Cấm không tiêm tĩnh mạch dung môi dầu, vì sẽ gây tắc mạch phổi, cũng cấm tiêm chất làm tan máu hoặc độc với cơ tim. Tiêm tĩnh mạch quá nhanh có thể gây rối loạn tim và hô hấp, giảm huyết áp, trụy tim mạch do nồng độ tức thời quá cao của thuốc ở cơ tim, phổi, động mạch.
Phân phối thuốc
Gắn thuốc vào protein huyết tương: Sau khi hấp thu, thuốc vào máu, nhiều thuốc lúc đó gắn được vào protein - huyết tương. Ý nghĩa là:
Khi còn đang gắn vào protein - huyết tương, thì thuốc chưa có tác dụng; chỉ dạng tự do (không gắn vào protein - huyết tương) mới có tác dụng;
Protein - huyết tương là "tổng kho" dự trữ thuốc;
Ở trẻ sơ sinh (nhất là trẻ thiếu tháng), khả năng gắn thuốc vào protein - huyết tương còn kém nên trẻ dễ nhạy cảm với nhiều thuốc (như theophylin, phenylbutazon, rifampicin, lincomycin, quinin, diazepam, erythromycin...).
Khi dự trữ protein - huyết tương giảm (như trong những bệnh cấp tính, có thai, xơ gan, chấn thương, bỏng, suy kiệt, hội chứng thận hư, trẻ sơ sinh thiếu tháng, người có tuổi...), thì dạng thuốc tự do tăng lên, độc tính của thuốc tăng theo.
Phân phối thuốc qua rau thai: Bề mặt hấp thu của rau thai lớn (50 m2), lưu lượng máu của tuần hoàn rau thai rất cao, cho nên hầu hết mọi thuốc đều qua được rau thai để vào thai với tốc độ nhanh chậm khác nhau.
Trong 12 tuần đầu (qúy I) của thời kỳ có thai, mẹ dùng một số thuốc có thế làm cho phôi ngộ độc hoặc gây quái thai. Trong những tháng sau của tuổi thai, hiện tượng gây quái thai giảm đi, nhưng nhiều thuốc vẫn độc với thai. Đến khi sinh đẻ, rau thai biến chất, để lọt nhiều chất thấm ồ ạt, trong khi đó thai chưa đủ khả nàng chuyển hóa và th ải thuốc; chính lúc trở dạ mà dùng thuốc cho mẹ rất có thế gây độc cho trẻ sơ sinh, làm rôi loạn cơ thể trẻ nhiều giờ, nhiều ngày sau khi ra đời, ví dụ sau khi mẹ dùng thuốc mê, chế phẩm thuốc phiện, diazepam (Seduxen), cloramphenicol, sulfamid, aspirin, reserpin.
Một số thuốc cấm dùng cho mẹ khi có thai
Bactrim (Co - trimoxazol; Biseptol), phenytoin, cloramphenicol, rượu ethylic, các hormon, kali oidid, dẫn xuất chứa iod, mebendazol (Vermox), nietronidazol (Plagyl), quinin, quinidin, sulfamid, tetracyclin, thuốc lợi niệu loại thải kali, thuốc lá, thuốc lào, thuốc chông thụ thai, furosemid (Lasix), thuốc chông đái tháo đường, streptomycin, gentamicin, thuốc chông sốt rét, thuốc chông ung thư và ức chế m iễn dịch, nhiều thuốc chông nôn...
Một số thuốc cần dùng thận trọng khi có thai
Aldomet, diazepam, thuốc lợi tiểu, dẫn xuất của thuốc phiện, theophylin, thuốc nhuận tràng mạnh, phenobarbital (luminal), rifampicin...
Tóm lại, tốt nhất là không dùng thuốc trong khi có thai, trừ khi thật cần.
Tích lũy thuốc
Khi được phân phối, thuốc có thể "nằm lỳ" ở một bộ phận dặc biệt của cơ thể.
Thạch tín, chì và những kim loại nặng khác nằm ở sừng, lông tóc. Chì gắn mạnh vào
xương, da. Tetracyclin gắn nhiều vào sụn, răng trẻ em. Cloroquin tích lũy ở mắt, tai,
da, tóc. Griseofulvin tích lũy lâu ở lớp sừng dưới da và uống dể chông nấm ngoài da....
Chuyển hóa thuốc
Có thuốc vào cơ thể rồi thải nguyên vẹn, không qua chuyển hóa. Có thuốc khi uống bị trung hòa ngay ở dịch vị. Nhưng nhiều thuốc, sau khi hấp thu, phải được chuyển hóa rồi mới thải được khỏi cơ thể. Thông thường qua chuyển hóa, thuốc sẽ mất tác dụng và hết độc. Gan giữ vai trò quan trọng nhất trong chuyển hóa thuốc, cho nên với người có gan bệnh lý, cần dùng với liều lượng thuốc thận trọng.
Thải trừ thuốc
Qua thận: Phần lớn những thuốc tan trong nước sẽ thải qua nước tiết, hoặc lọc qua mao mạch tiểu cầu thận, hoặc thải qua biểu mô ống lượn gần.
Nước tiểu acid giúp những chất kiềm nhẹ dễ th ải qua nước tiểu, như khi ngộ độc quinin, morphin, atropin... ta toan hóa nước tiểu bằng uôhg amoni clorid hoặc acid phosphoric để giải độc.
Nước tiểu kiềm giúp những chất là acid nhẹ dễ th ải qua nước tiểu, ví dụ khi ngộ độc luminal, streptomycin, sulfamid, tetracyclin, ta kiềm hóa nước tiểu bằng uống (hoặc tiêm truyền) natri bicarbonat để giải độc.
Thiểu năng thận ngăn cản thài thuốc qua nước tiểu, làm tàng độc tính của thuốc, ví dụ người suy thận dễ bị điếc do dùng streptomycin, gentamicin, hirosemid (Lasix)...
Một số thuốc không được dùng khi suy thận
Streptomycin, gentamicin, penicilin G, nitrofurantoin, lidocain, cloraraophenicol, glycosid trợ tim (như digoxin, digitoxin), sulfamid chống đái tháo đường, furosemid (Lasix), dẫn xuất chứa thủy ngân, chế phẩm chứa bisraut, sulíamid kìm khuẩn, succinycholin...
Qua mật: Có nhiều thuốc thải được từ gan, qua mật, rồi theo đường tiêu hóa ra ngoài. Có thuốc thải được qua nước tiểu và qua phân. Có thuốc qua mật, xuống ruột non, lại bị chuyển hóa ở ruột, rồi qua tĩn h mạch cửa để trở lại gan, đó là "chu kỳ gan - ruột", giúp thuốc tồn tại lâu trong cơ thể, ví dụ cloramphenicol, tetracyclin, morphin, quinin, sulfamid chậm...
Uống thuốc kháng sinh, sulfamid sẽ gây rối lóạn tiêu hóa, làm giảm lượng tạp khuẩn có ích cho chuyển hóa thuốc khác ở ruột.
Qua sữa: Thải thuốc qua sữa phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như:
Về phía người niẹ: Liều thuốc dùng, số lần dùng thuốc trong ngày, con đường dùng (uống, tiêm...);
Về phía đứa trẻ đang thời kỳ bú: Lượng bú, liên quan giữa giờ bú với thời điểm mẹ dùng thuốc và giờ lên sữa, thời gian, khôi lượng và khoảng cách những đợt bú, khả năng hấp thu, chuyển hóa, thải trừ thuốc;
Sinh lý tuyến vú: Lưu lượng máu ở vú, thời điểm lên sữa.
Một số thuốc cấm mẹ dùng trong thời kỳ cho con bú
Metronidazol (Plagyl), cimetidin (Tagaraet), reserpin, thuốc chông thụ thai, tetracyclin, cloramphenicol, hormon sinh dục...
Một số thuốc mà mẹ dùng được, như ng cần theo dõi tác dụng phụ ở trẻ bú
Các sulfamid, diazepam, phenobarbital (luminal), aspirin, thuốc lá, thuốc lào, theophylin, thuốc phiện, rượu ethylic, isoniazid, dapson, vitam in A liều cao, vitam in D liều cao, cortisol, dexamethason, cloral hydrat...
Bài viết cùng chuyên mục
Các loại thuốc lợi niệu
Mỗi thuốc lợi niệu thường tác dụng, ở một vị trí nhất định của ống thận, làm thay đổi thành phần ion của nước tiểu trong lòng ống thận.
Nguyên tắc dùng thuốc chống lao
Để giảm tỷ lệ kháng thuốc, và rút ngắn thời gian điều trị, các thuốc chống lao luôn dùng cùng một lúc, ít nhất 3 loại thuốc trong 24 giờ.
Các vitamin tan trong dầu
Vitamin A có 3 dạng, retinol, retinal và acid retionic, retinol là một rượu dưới dạng ester có nhiều trong gan, bơ, phomat, sữa, lòng đỏ trứng, retinal dạng aldehyd của vitamin A
Nguyên tắc điều trị phong hiện nay
Nhằm tăng hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian dùng thuốc, và hạn chế sự kháng thuốc của trực khuẩn phong.
Các thuốc chống lao
Là thuốc vừa kìm khuẩn vừa diệt khuẩn, uống hấp thu từ từ qua đường tiêu hóa, sau 3 giờ đạt nồng độ tối đa trong máu và thải trừ chủ yếu qua thận.
Thuốc loại glycosid (glycosid trợ tim)
Hiện chỉ còn digoxin, và digitoxin được dùng ở lâm sàng, digitoxin khác digoxin là không có OH ở C12 vì thế ít tan trong nước hơn.
Thuốc trợ tim không phải digitalis
Thuốc loại này được dùng cho suy tim cấp tính, và đợt cấp tính của suy tim mạn, biểu hiện bằng cơn khó thở nặng, phù ngoại biên hoặc phù phổi.
Đại cương thuốc chống lao
Trực khuẩn lao gây bệnh lao phổi, và các cơ quan khác, là loại vi khuẩn kháng cồn, kháng acid, sống trong môi trường ưa khí, phát triển chậm.
Đại cương thuốc kháng virus
Virus gồm có loại 1, hoặc 2 chuỗi ADN, hoặc ARN được bọc trong một vỏ protein, gọi là capsid, một số virus có cả vỏ lipoprotein.
Những yếu tố ảnh huởng đến tác dụng của thuốc
Thuốc muốn có tác dụng, phải gắn được vào receptor, ái lực với receptor, và sau đó là hoạt hóa được receptor đó, có hiệu lực hay tác dụng.
Đại cương thuốc giảm đau loại morphin
Thuốc giảm đau loại morphin có chung một đặc tính là gây nghiện, vì vậy đều thuộc bảng A, gây nghiện, không kê đơn quá 7 ngày.
Nhóm thuốc kháng sinh tetracyclin
Các tetracyclin đều là kháng sinh kìm khuẩn, có phổ kháng khuẩn rộng nhất trong các kháng sinh hiện có, các tetracyclin đều có phổ tương tự, trừ minocyclin.
Sự hấp thu của thuốc
Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc (uống, tiêm) vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào: Độ hòa tan của thuốc.
Một số thuốc đặc hiệu dùng trong nhiễm độc
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ở Anh đã nghiên cứu các chất chống lại chất độc hóa học chứa hơi asen, đã tìm ra dimercaprol.
Một số vấn đề về sử dụng kháng sinh
Chỉ dùng kháng sinh cho nhiễm khuẩn, không dùng cho nhiễm virus, có loại riêng, dùng càng sớm càng tốt.
Sự chuyển hóa thuốc
Nhưng như ta đã biết, thuốc là những phân tử tan được trong mỡ, không bị ion hóa, dễ thấm qua màng tế bào, gắn vào protein huyết tương, và giữ lại trong cơ thể.
Dược lý học rượu
Tác dụng của rượu, trên thần kinh trung ương, phụ thuộc vào nồng độ rượu trong máu, ở nồng độ thấp rượu có tác dụng an thần, làm giảm lo âu.
Colchicin: thuốc chữa bệnh gút
Phần lớn liên quan đến tác dụng ức chế sự trùng hợp, của tubulin và ức chế phân bào, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, ức chế tuỷ xương.
Nhóm phối hợp sulfamid và trimethoprim
Trimethoprim là một chất hóa học tổng hợp, có tác dụng ức chế dihydrofolat reductase của vi khuẩn, 50000 đến 100000 lần mạnh hơn trên người.
Các opioid thường dùng: dẫn xuất của morphin
Một số dẫn xuất của morphin như thebain, dionin, dicodid, eucodal, có tác dụng giảm đau, gây sảng khoái, gây nghiện như morphin.
Các thuốc hạ glucose máu
Ngày nay, dựa vào cấu trúc, insulin có thể được bán tổng hợp từ insulin lợn, hoặc nhờ kỹ thuật tái tổ hợp gen thông qua vi khuẩn hoặc nấm.
Thuốc bình thần
Có nhiều tên gọi: minor tranquillizers, anxiolytics, sedatives, hoặc thuốc an thần thứ yếu, thuốc bình thần, nhóm thuốc quan trọng hàng đầu là benzodiazepin.
Dẫn xuất benzodiazepin
Benzodiazepin có tác dụng an thần, giải lo, làm dễ ngủ, giãn cơ và chống co giật, thường dùng để chữa mất ngủ hoặc khó đi vào giấc ngủ do ưu tư lo lắng.
Đại cương thuốc chữa gút
Các thuốc điều trị cơn gút cấp tính, sẽ ức chế các giai đoạn hoạt hóa bạch cầu, đặc hiệu nhất là colchicin.
Đại cương Vitamin
Vitamin là những hợp chất hữu cơ, mà tế bào người, và động vật không thể tự tổng hợp, có mặt trong thức ăn, với số lượng nhỏ.
