Chứng khổng lồ và to đầu chi

2016-01-21 03:00 PM

Rất hiếm khi to đầu chi do các u tụy hoặc carcinoid phế quản hoặc u vùng dưới đồi tiết GH hoặc GHRH lạc chỗ. Đôi khi bệnh xuất hiện thoáng qua và tiếp sau là suy tuyến yên bán phần.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Chức năng thùy trước tuyến yên được kiểm soát nhờ sự điều hòa sản xuất các hormon vùng dưới đồi và nhờ cơ chế feedback trực tiếp. Thùy sau tuyến yên nhận hormon chống bài niệu (ADH) và Oxytocin từ vùng dưới đồi rồi bài tiết các hormon này dưới sự kiểm soát của hệ thần kinh trung ương. Các hormon vùng dưới đồi thường kích thích thủy trước tuyến yên trừ dopamin lại ức chế tuyến yên tiết prolactin tự phát.

Bảng. Các hormon tuyến yên

 Các hormon tuyến yên

1GH rất giống với chất sinh sữa ở rau thai người (hPL).

2LH rất giống với hCG.

3AVP giống với hormon chống bải niệu (ADH).

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Phát triển quá mức tay (tăng cỡ nhẫn và găng tay), chân (tăng cỡ giày), hàm (nhô ra - vẩu) và các nội tạng hoặc có hình dáng khổng lồ trước khi cốt hóa các sụn.

Mặt thô, giọng trầm hơn.

Vô kinh, đau đầu, giảm thị trường, vã mồ hôi, mệt mỏi.

Bàn tay mềm, nhão, ướt.

GH huyết thanh không bị ức chế sau test cho uống glucose.

Tăng yếu tố tăng trưởng I giống insulin (IGF-I).

Kỹ thuật hình ảnh: hình búi chùm dấu ấn ngón tay trên phim sọ. CT hoặc MRI phát hiện được u tuyến trong 90% trường hợp.

Nhận định chung

GH có tác dụng tăng trưởng chủ yếu thông qua sự giải phóng các IGF- I ở gan và các mô sản xuất khảc.

Gần như tất cả các bệnh nhân to đầu chi đều do u tuyến yên. Các u này có thể chỉ xâm nhập tại chỗ, đặc biệt là vào tĩnh mạch xoang hang.

Chỉ có dưới 1% là các u ác tính, đại đa số là các u tuyến lớn (đường kính > 1 cm). To đầu chi thường là bệnh đơn phát, nhưng đôi khi có tính chất gia đình. Nó có thể kết hợp cùng các u nội tiết của tuyến cận giáp hoặc tuyến tụy (đa u nội tiết typ I: multiple endocrine neoplasia type I - men typ I). To đầu chi có thể nằm trong hội chứng McCune - Albright và có thể như là một phần của phức hợp Carney (u nhầy tâm nhĩ, u thần kinh thính giác và có các nốt sắc tố). Rất hiếm khi to đầu chi do các u tụy hoặc carcinoid phế quản hoặc u vùng dưới đồi tiết GH hoặc GHRH lạc chỗ. Đôi khi bệnh xuất hiện thoáng qua và tiếp sau là suy tuyến yên bán phần.

Triệu chứng và dấu hiệu

Nồng độ hormon tăng trưởng cao nếu xuất hiện trước khi cốt hóa các sụn gây tình trạng cao lớn, khổng lồ, còn nếu xảy ra sau khi cốt hóa thì gây to đầu chi. Thuật ngữ to đầu chi có nghĩa là sự phì đại bất thường các đầu chi.

Bàn tay to, mềm, ẩm, các ngón tay to làm bệnh nhân phải thay nhẫn. Rất hay gặp hội chứng đường hầm cổ tay. Bàn chân cũng to nhất là bề ngang. Mặt thô do phì đại các xương và các xoang sọ, bệnh nhân phải tăng cỡ mũ. Xương hàm dưới chìa ra trước gây vẩu và khớp cắn lệch, các răng thưa.

Lưỡi to cùng sự phì đại mô hầu họng và thanh quản gây giọng khàn, trầm và đôi khi gây cản trở việc đặt nội khí quản. Có thể có ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn đường thở. Có thể có bướu giáp. Thường gặp tim to và tăng huyết áp (tỉ lệ 50%), tỷ lệ bị bệnh tim mạch tăng lên. Bệnh nhân thường có tăng cân đặc biệt là tăng khối lượng cơ và xương. Bệnh nhân thường kháng insulin và 30% bị đái tháo đường. Bệnh nhân có đau khớp và viêm bắp thoái hóa. Quá phát các xương đốt sống có thể gây hẹp ống tủy. Nhiều bệnh nhân có polyp đại tràng, đặc biệt ở những bệnh nhân có u nhú ở da. Khám da thấy nhiều mồ hôi, dày, có các nang trứng cá và dày lớp gai đen (acanthosis nigricans).

Các u tuyến yên tiết GH thường gây suy sinh dục các mức độ do tiết đồng thời cả prolactin hoặc do u chèn ép trực tiếp vào phần tuyến yên bình thường. Bệnh nhân thường có bất lực hoặc giảm tình dục cũng như rối loạn kinh nguyệt hoặc vô kinh. Đôi khi bệnh nhân bị suy giáp thứ phát; suy thượng thận thì ít gặp. Các bệnh nhân thường có đau đầu và có thể có bán manh thái dương do u hố yên phát triển chèn vào chéo thị giác.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Làm các xét nghiệm máu vào buổi sàng (sau một đêm nhịn đói):

Prolactin (rất nhiều u tiết GH có tiết cả prolactin), IGF-I (tăng tới hơn 5 lần ở đa số các bệnh nhân to đầu chi), đường máu (do bệnh nhân to đầu chi thường có đái tháo đường), men gan và BUN, phospho (thường tăng). FT4 và TSH (bệnh to đầu chi thường có suy giáp thứ phát; còn suy giáp tiên phát có thể làm tăng prolactin);

Làm nghiệm pháp cho uống 100g xirô glucose rồi đo GH huyết thanh sau 60 phut. Mức GH tăng > 2 ng/ml (ở nam) hoặc 5 ng/ml (ở nữ) là bằng chứng của bệhh to đầu chi.

Có thể gặp tăng GH huyết thanh giả tạo do vận động hoặc do ăn ngay trước khi làm xét nghiệm, do mắc bệnh cấp tính hoặc kích động, do suy gan và suy thận, do suy dinh dưỡng, đái tháo đường hoặc do đang điều trị bằng estrogen, chẹn β, clonidin. Một số bệnh nhân to đầu chi có nồng độ GH trong huyết thanh ở mức bình thường.

Chụp cộng hưởng từ phát hiện u tuyến yên trong 90% các trường hợp to đầu chi. Chụp cộng hưởng từ thường có giá trị hon chụp cắt lớp, đặc biệt trong đánh giá bệnh nhân sau mổ. Chụp X quang sọ có thể thấy hố yên rộng và xương sọ dày, ngoài ra có thể thấy các dấu ấn ngón tay và dâu ấn ngón chân. Chụp nghiêng bàn chân thấy dày khối đệm gót chân.

Chẩn đoán phân biệt

Phải phân biệt bệnh nhân to đầu chi tiến triển với những người hình dáng thô có tính gia đình như: chân và tay to, hàm vẩu. Cũng cần phân biệt thể to đầu chi không tiến triển có sự lui giảm bệnh tự nhiên do nhồi máu u tuyến yên. Chẩn đoán phân biệt to đầu chi dựa vào các xét nghiệm, tăng liên tục cỡ nhẫn đeo tay và cỡ giày, mặt ngày càng thô hơn nhất là khi xem một loạt ảnh chụp.

Biến chứng

Các biến chứng bao gồm suy tuyến yên, tăng huyết áp, rối loạn dung nạp glucose hoặc đái tháo đường, tim to và suy tim. Hội chứng đường hầm cổ tay do chèn ép thần kinh giữa ở cổ tay có thể gây liệt bàn tay.

Có thể có viêm các khớp háng, khớp gối và khớp cột sống, đôi khi có chèn ép tủy sống. Giảm thị trường có thể rất nặng và tiến triển. Bệnh nhân có thể bị mất thị lực đột ngột hoặc liệt dây thần kinh sọ do u tuyến yên bị hoại tử và chảy máu tự phát (tràn máu tuyến yên).

Điều trị

Vi phẫu thuật qua đường xương bướm cho phép loại bỏ adenoma mà vẫn bảo tồn được chức năng tuyến yên ở đa số bệnh nhân. Mức GH giảm ngay lập tức nhưng mức IGF-I giảm dần trong vòng vài ngày đến vài tuần. Triệu chứng toát mồ hôi và hội chứng đường hầm cổ tay thường giảm trong vòng một ngày sau phẫu thuật. Điều trị tia xạ tuyến yên được lựa chọn nếu mổ thất bại. Các bệnh nhân lui bệnh thường có xu hướng tăng cân. Sau điều trị, các bệnh nhân cần được kiểm tra định kỳ đánh giá chức năng tuyến yên. Cabergolin liều 1- 1,75 mg/tuần có thể kiểm soát được sự bài tiết GH ở một số ít bệnh nhân, thường là bệnh nhân có cường tiết cả prolactin kèm theo. Nó có thể làm u nhỏ lại, ước chừng 1/3 các u tiết cả GH và PRL nhỏ đi hơn 50% kích thước.

Octreotid, một đồng phân của somatostatin có thể có tác dụng trong điều trị chứng to đầu chi, đặc biệt ở những nơi không làm được vi phẫu thuật qua xương bướm. Liều dùng octreotid trung bình là 100µ tiêm dưới da 3 lần/ngày. Dạng phóng thích chậm của đồng phân somatostatin tác dụng kéo dài (SR-lanreotid) với liều 30 mg tiêm bắp mỗi 10- 15 ngày, ức chế được GH ở mức dưới 5 mg/ml ở 60% các bệnh nhân điều trị tử 3 - 6 tháng, bệnh nhân thường đỡ đau đầu nhưng u thường chi nhỏ đi ít. Octreotid cũng có thể có tác dụng ở một số bệnh nhân to đầu chi do u lạc chỗ. Khoảng 1/3 các bệnh nhân bị tác dụng phụ gồm đau tại chỗ tiêm, ỉa phân lỏng do thiếu (giảm) dịch mật, đầy bụng hoặc sỏi mật. Các chất đồng vận với dopamin đôi khi có tác dựng nhất là ở những bệnh nhân có u tăng tiết cả CH và PRL. Chất đồng vận dopamin có nhánh ergot lý tưởng là cabergolin uống liều 1 - 1,75 mg/ thần. Chất đồng vận không có nhánh ergot như quinagolid (không có ở Mỹ) uống với liều 0,3 - 0,6 mg/ngày cũng có hiệu quả. Các tác dụng phụ gồm: buồn nôn, đau đầu và tụt huyết áp. Những triệu chứng này thường thuyên giảm khi, gỉảm liều thuốc.

Tiên lượng

Các bệnh nhân to đầu chi không được điều trị có xu hướng bị bệnh tim mạch sớm (từ trước dậy thì) và có các triệu chứng của to đầu chi tiến triển. Phẫu thuật tuyến yên đường qua xương bướm thành công tới 90% ở các bệnh nhân có u đường kính dưới 2 cm và GH dưới 50 ng/ml. Chức năng tuyến yên thường được phục hồi bình thường sau mổ. Phì đại các mô mềm có thể giảm nhưng các xương to là vĩnh viễn. Tăng huyết áp thường tồn tại kéo dài dù được phẫu thuật tốt. Điều trị tia xạ thường qui đơn thuần làm giảm bệnh ở 38% bệnh nhân sau 2 hăm và 73% sau 5 năm. Tia xạ bằng các dao gamma cũng rất có hiệu quả. Tia xạ năng lượng cao làm lui bệnh ở khoảng 70% bệnh nhân sau 2 năm và 80% sau 5 năm. Đa số bệnh nhân điều trị tia xạ thường bị suy tuyến yên ở các mức độ khác nhau. Liệu pháp tia xạ thường qui có thể gây tổn thương não và đột quỵ nhẹ. Mức GH lớn hơn 5 mg/ml và tăng lên thường báo hiệu u tái phát.

Bài viết cùng chuyên mục

Đa u tuyến nội tiết

Điều trị ngoại khoa với cường cận giáp trong MEN 1 có thể giảm bệnh thời gian dài nhưng hay tái phát, cắt tuyến cận giáp triệt để có thể gây suy cận giáp vĩnh viễn.

Vô kinh thứ phát

Thăm khám vùng khung chậu cẩn thận để kiểm tra sự phát triển tử cung và phần phụ và làm phiến đồ âm đạo và pap để đánh giá ảnh hưởng của estrogen.

Vô kinh tiên phát

Bệnh nhận bị vô kinh tiên phát đòi hỏi phải hỏi tiền sử và thăm khám thực thể tìm ra những triệu chứng đáng lưu ý dưới đây. Đau đầu hoặc thị trường bất thường chỉ ra u tuyến yên hoặc vùng dưới đồi.

Hạ đường huyết do Pentamidin

Tiếp theo liệu trình điều trị đầy đủ bằng pentamidin, cần theo dõi glucose máu lúc đói hay glycohemoglobin sau đó để đánh giá phạm vi phục hồi tế bào β tụy hoặc di chứng tổn thương.

Hạ đường huyết do bệnh lý miễn dịch

Muộn hơn sau khi phần lớn thức ăn được hấp thu, nồng độ insulin cao một cách không thích hợp phân ly khỏi phần kháng thể gắn vào nó, gây ra hạ đường huyết.

Hạ đường huyết giả tạo

Khi nghi ngờ sulfonylurea là nguyên nhân gây hạ đường huyết giả tạo, có thể cần đến test hóa học với huyết tương để phát hiện sự có mặt của những thuốc này.

Hạ đường huyết liên quan với rượu

Việc phòng ngừa bao gồm ăn thức ăn thích hợp trong thời gian uống rượu. Điều trị bao gồm sử dụng glucose để bổ sung dự trữ glycogen cho đến khi quá trình tạo mới glucose được phục hồi.

Hạ đường huyết sau bữa ăn

Ở những bệnh nhân được ghi nhận là hạ đường huyết trên cơ sở cơ năng, việc giảm phần carbonhydrat trong chế độ ăn trong khi tăng tần số.

Hạ đường huyết do u ngoài tụy

Chẩn đoán cận lâm sàng dựa trên hạ đường huyết lúc đói kết hợp với nồng độ insulin huyết thanh. Nồng độ này nói chung dưới 8 µU/mh. Cơ chế tác dụng hạ đường huyết của những khối u này vẫn chưa rõ.

Hạ đường huyết do u tế bào β tụy

Không nhận biết hạ đường huyết rất hay có ở bệnh nhân có u đảo tụy. Họ thích nghi với hạ đường huyết mạn bằng cách tăng hiệu quả của chúng trong vận chuyển glucose qua hàng rào máu não.

Các trạng thái hạ đường huyết

Hạ đường huyết lúc đói có thể xảy ra trong các rối loạn nội tiết nhất định như giảm năng tuyến yên, bệnh Addison hoặc chứng phù niêm, trong các rối loạn liên quan với giảm chức năng gan.

Nhiễm toan lactic

Đặc điểm lâm sàng của nhiễm toan lactic là tăng thông khí rõ rệt. Khi nhiễm toan lactic là thứ phát do thiếu oxy tổ chức hay truy mạch, dấu hiệu lâm sàng khác nhau.

Hôn mê tăng thẩm thấu tăng đường huyết không có nhiễm ceton

Thiếu insulin là một phần tương đối có thể làm khởi phát hội chứng bằng cách làm giảm sử dụng glucose ở gan. Khi glucose niệu nhiều chắc chắn lượng nước mất đi lớn.

Nhiễm toan ceton do đái tháo đường

Nhiễm toan ceton, có thể là biểu hiện ban đầu của đái tháo đường typ 1, hoặc là kết quả của việc tăng nhu cầu insulin ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1, trong thời gian nhiễm khuẩn.

Biến chứng mạn tính của đái tháo đường

Ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1, biến chứng do bệnh thận giai đoạn cuối là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong, trong khi bệnh nhân đái tháo đường typ 2 thì bệnh ở các động mạch lớn.

Các bước trong xử trí bệnh nhân đái tháo đường

Việc điều trị cần phải được định rõ trên cơ sở typ đái tháo đường và nhu cầu riêng biệt của từng bệnh nhân. Tuy nhiên, những nguyên tẳc chung nhất định cần được phác thảo.

Đái tháo đường

Đái tháo đường, là một hội chứng với rối loạn chuyển hóa, và tăng đường huyết không thích hợp, hoặc là do giảm bài tiết insulin.

Sử dụng glucocorticoid trên lâm sàng

Điều trị glucocorticoid toàn thân kéo dài gây ra một loạt các tác dụng phụ có thể đe doạ tính mạng. Bệnh nhân nên được thông tin một cách tỉ mỉ về các tác dụng phụ có thể có trong quá trình điều trị bằng glucocorticoid.

Hội chứng Turner: loạn phát triển sinh dục

Các trẻ gái có hội chứng Turner được chẩn đoán khi sinh do chúng có xu hướng bé và có thể thấy phù bạch huyết nặng. Chẩn đoán đối với trẻ lớn khi có biểu hiện hình thể ngắn.

Giảm năng tuyến sinh dục nam

Việc đánh giá giảm năng tuyến sinh dục, bằng cách đo tertosteron và tertosteron tự do trong huyết thanh, mức testoteron huyết thanh thấp được đánh giá cùng với LH và FSH.

Tăng Aldosteron tiên phát

Chẩn đoán phân biệt tăng aldosteron bao gồm các nguyên nhân khác gây giảm kali ở bệnh nhân có tăng huyết áp vô căn.

Rậm lông và nam hóa

Tăng 17 ketosteroid niệu kết hợp nồng độ huyết thanh của DHEAS và androstenedion tăng trong các trường hợp bệnh lý thượng thận, còn do các nguyên nhân khác thì nồng độ các chất trên thay đổi.

Hội chứng Cushing

Nguyên nhân phổ biến nhất là do sử dụng glucocorticoid quá liều sinh lý, hiếm hơn là do vỏ tuyến thượng thận tự động sản xuất quá nhiều corticosteroid.

Suy vỏ thượng thận mạn tính: bệnh addison

Bệnh Addison là một bệnh ít phổ biến, do sự phá hủy hoặc rối loạn chức năng của vỏ thượng thận. Bệnh được đặc trưng bởi sự thiếu hụt mạn tính cortisol, aldosteron và androgen thượng thận, gây sạm da kín đáo hoặc rõ rệt.

Suy vỏ thượng thận cấp

Suy thượng thận cấp xảy ra do thiếu cortisol là một tình trạng cấp cứu. Đợt cấp có thể xảy ra trong quá trình điều trị suy thượng thận mạn tính không đây đủ hoặc là biểu hiện suy thượng thận.

Bệnh Paget xương

Đau xương thường là triệu chứng đầu tiên. Các xương mềm nên dễ bị cong xương chày, gù lưng và hay gẫy dù với chấn thương nhẹ. Nếu tổn thương xương sọ.

Nhuyễn xương

Giảm sự khoáng hóa của khung xương đang tăng trưởng ở lứa tuổi ấu thơ gây ra biến dạng xương (còi xương), còn giảm sự khoáng hóa ở người lớn gây ra chứng nhuyễn xương.

Loãng xương

Loãng xương là bệnh xương do chuyển hóa thường gặp nhất ở Mỹ và là nguyên nhân của hàng trăm nghìn các trường hợp gẫy xương hàng năm. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết gián tiếp do bệnh còn rất cao.

Cường cận giáp

Cường cận giáp gây bài tiết quá mức calci và phospho qua thận, dẫn đến tạo thành sỏi ở đường tiết niệu. Ít nhất có tới 5% sỏi thận là do bệnh này. Calci hóa lan tỏa nhu mô thận ít gặp hơn.

Suy cận giáp và giả suy cận giáp

Suy cận giáp cấp gây tetany với chuột rút cơ, kích thích, co rút bàn tay và co giật; bệnh nhân luôn có tê đau vùng quanh miệng, bàn tay và bàn chân.

Viêm tuyến giáp

Tự kháng thể tuyến giáp thường thấy nhất ở viêm tuyến giáp Hashimoto nhưng cũng có thể thấy ở các thể viêm tuyến giáp khác. Mức TSH huyết thanh cao.

Cường giáp

Dấu hiệu nhiễm độc giáp có thể bao gồm nhìn chằm chằm, dấu hiệu von Graefe, nhịp tim nhanh hoặc rung nhĩ, run đầu chi, da nóng ẩm, tăng phản xạ gân xương, tóc mềm, móng dễ gãy, và suy tim (hiếm gặp hơn)..

Suy giáp và phù niêm

Thiếu hụt hormon giáp có thể ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Mức độ nặng của bệnh từ suy giáp nhẹ và tình trạng suy giáp không nhận thấy được cho tới phủ niêm rõ rệt.

Các rối loạn thiếu hụt iod

Bướu cổ dịch tễ có thể trở thành bướu đa nhân và rất to; bướu to ra trong thời gian mang thai có thể gây ra triệu chứng chèn ép. Một số bệnh nhân bướu cổ địa phương có thể trở thành suy giáp.

Ung thư giáp trạng

Dấu hiệu chủ yếu của ung thư giáp trạng là nhân thuộc tuyến giáp sờ thấy được, chắc và không căng. Hạch vùng cổ trước có thể to ra. Ung thư giáp biệt hóa di căn.

Bướu nhân giáp trạng

Bệnh nhân được phát hiện tuyến giáp to cần hỏi thêm tiền sử gia đình và tiền sử bản thân về bệnh lý tuyến giáp, tiền sử điều trị vùng tia xạ vùng đầu hoặc vùng cổ hoặc tia xạ vùng khác.

Xét nghiệm, xạ hình chẩn đoán bệnh tuyến giáp

Các xét nghiệm về tuyến giáp rất hữu ích trong đánh giá các rối loạn của tuyến giáp. Tuy nhiên, nhiều bệnh và nhiều thuốc có khả năng làm thay đổi nồng độ thyroxin trong máu.

Tăng prolactin máu

Cường tiết prolactin do bất kỳ nguyên nhân gì cũng có thể gây suy sinh dục. Nam thường bị giảm tình dục, rối loạn cường dương và đôi khi bị vú to nhưng không bao giờ có chảy sữa.

Đái tháo nhạt

Đái tháo nhạt là bệnh ít gặp, có đặc điểm là người bệnh luôn có cảm giác khát và số lượng nước tiểu rất nhiều, tỷ trọng thấp. Các tính chất khác của nước tiểu bình thường.

Suy tuyến yên

Nguyên nhân có thể do các tổn thương chiếm chỗ như adenoma tuyến yên, u não hoặc các phình mạch, xuất huyết não, ung thư di căn não, u hạt, bệnh u hạt tế bào Langerhans đa ổ và áp xe tuyến yên.

Nhận biết biểu hiện thường gặp trong bệnh nội tiết

Béo phì là bệnh thường gặp nhưng hiếm khi tìm thấy nguyên nhân về nội tiết mà thường là do các nguyên nhân khác. Đa số người béo phì không thừa nhận là do họ ăn nhiều.

U tụy tế bào tiểu đảo

Các u tế bào tiểu đảo có thể tiết hormon lạc chỗ củng với hormon tự nhiên, thường phối hợp gây ra hàng loạt các hội chứng lâm sàng. Chúng có thể tiết ACTH gây hội chứng Cushing.

Khối u tế bào ưa crom

Bên cạnh các triệu chứng nêu trên, một số bệnh nhân có thể thay đổi tâm thần hoặc lẫn lộn, động kinh, tăng đường máu, mạch nhanh, hạ huyết áp, dị cảm hoặc hiện tượng Raynaud.