Hạ đường huyết do u tế bào β tụy

2016-02-22 02:35 PM

Không nhận biết hạ đường huyết rất hay có ở bệnh nhân có u đảo tụy. Họ thích nghi với hạ đường huyết mạn bằng cách tăng hiệu quả của chúng trong vận chuyển glucose qua hàng rào máu não.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hạ đường huyết lúc đói ở người lớn khoẻ mạnh, mà dinh dưỡng tốt rất hiếm gặp và phần lớn thường do u tuyến của đảo tụy Langerhans. 90% các khối u như vậy là đơn độc và lành tính nhưng cũng có thể xảy ra đa u tuyến cũng như u ác tính với di căn cơ năng. Hiếm gặp tăng sinh sản tế bào β như là nguyên nhân gây hạ đường huyết và không được ghi nhận rõ ở người lớn. Các u tuyến cơ thể có mang tính gia đình và đa u tuyến có thể tìm thấy cùng với các khối u tuyến cận giáp và tuyến yên (tân tạo đa nội tiết typ 1 [multiple endocrine neoplasia typ 1 = MNE - 1]).

Các triệu chứng và dấu hiệu

Là các triệu chứng và dấu hiệu của hạ đường huyết bán cấp hoặc mạn. Chúng có thể tiến triển thành tổn thương não vĩnh viễn và không phục hồi được. Chậm chẩn đoán thường đưa đến kết quả là chăm sóc tâm thần kéo dài hoặc điều trị động kinh tâm thần vận động trước khi xác định chẩn đoán chính xác. Trong các trường hợp bệnh kéo dài có thể dẫn đến béo phì như là hậu quả của việc ăn quá mức để làm hết triệu chứng.

Tam chứng Whipple là đặc trưng của hạ đường huyết không kể đến nguyên nhân. Nó bao gồm (1) tiền sử có triệu chứng hạ đường huyết, (2) đường huyết lúc đói kèm theo 40 mg/dl hoặc thấp hơn, và (3) phục hồi ngay lập tức khi sử dụng glucose. Các triệu chứng hạ đường huyết do u đảo tụy thường xuất hiện lúc sáng sớm hoặc sau khi bỏ bữa ăn. Đôi khi chúng xảy ra sau luyện tập. Chúng khởi phát điển hình bằng dấu hiệu thiếu glucose của hệ thần kinh trung ương và có thể gồm nhìn mờ hoặc nhìn đôi, đau đầu, cảm giác thờ ơ, nói lắp và yếu ớt. Nhân cách và tinh thần thay đổi nhiều từ lo lắng đến hành vi loạn tâm thần, và tổn hại thần kinh có thể dẫn đến co giật hay hôn mê. Toát mồ hôi hoặc đánh trống ngực có thể không xảy ra.

Không nhận biết hạ đường huyết rất hay có ở bệnh nhân có u đảo tụy. Họ thích nghi với hạ đường huyết mạn bằng cách tăng hiệu quả của chúng trong vận chuyển glucose qua hàng rào máu não. Do đó, các phản ứng hormon điều hoà ngược cũng như các triệu chứng thần kinh như run, toát mồ hôi và đánh trống ngực không rõ rệt trong thời gian hạ đường huyết. Tuy nhiên, sau phẫu thuật loại bỏ u đảo tụy thành công, các triệu chứng và đáp ứng hormon bình thường trong thời gian hạ đường huyết thực nghiệm do insulin cho thấy đã được phục hồi. Có thể cho rằng khi đường huyết về bình thường, hiệu quả thích nghi trong vận chuyển glucose vào não được điều chinh và do đó ngưỡng của đáp ứng điều hoà ngược và các triệu chứng thần kinh tự quản được phục hồi về bình thường.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

U tuyến tế bào β không giảm bài tiết khi hạ glucose máu và test chẩn đoán nguy cấp cho thấy có tăng một cách không thích hợp nồng độ insulin huyết thanh ở thời điểm có hạ đường huyết. Nồng độ insulin huyết thanh xác thực bằng 8 µU/ml hoặc cao hơn khi giá trị glucose máu dưới 40 mg/dl là chỉ tiêu chẩn đoán của insulin không thích hợp. Cần xem xét các nguyên nhân khác gây hạ glucose máu do tăng insulin huyết, bao gồm cả hạ đường huyết giả tạo do dùng insulin hoặc sulfonylurea. Tăng nồng độ proinsulin lưu hành là đặc trưng của u tuyến tế bào β và không xảy ra trong tăng insulin giả tạo.

Các test chẩn đoán

Nhịn đói kéo dài

Dưới sự theo dõi của bệnh viện cho đến khi hạ glucose máu được ghi nhận có lẽ là phương pháp đáng tin cậy nhất trong xác định chẩn đoán, đặc biệt ở đàn ông. Đối với bệnh nhân u đảo tụy, nồng độ glucose máu thường hạ xuống dưới 40 mg/dl sau khi nhịn đói qua đêm. Ớ người đàn ông bình thường, glucose máu không hạ xuống dưới 55 - 60 mg/dl trong thời gian nhịn đói 3 ngày. Ngược lại ở phụ nữ tiền mãn kinh chi sau 24 giờ nhịn đói, glucose huyết tương bình thường có thể hạ xuống tới mức 35 mg/dl. Sau 36 giờ nhịn đói, nồng độ glucose máu ở phụ nữ tiền mãn kinh bình thường có thể xuống tới mức mà việc đánh giá lâm sàng các test u đảo tụy trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên trong những trường hợp này, những người phụ nữ không có triệu chứng, có lẽ là do ceton huyết phát sinh ra đủ để cung cấp năng lượng cần thiết cho não. Mặt khác, những bệnh nhân bị u đảo tụy có triệu chứng khi glucose huyết tương giảm xuống dưới mức bình thường do sự bài tiết insulin không thích hợp hạn chế sự tạo thành ceton. Hơn nữa, chứng minh nồng độ insulin không bị ức chế (> 8 µU/ml) khi có hạ đường huyết và tăng tỷ lệ insulin với glucose (nghĩa là glucose giảm nhanh hơn so với insulin) chỉ ra chẩn đoán u đảo tụy bởi vì người phụ nữ bình thường có tỷ lệ insulin với glucose giảm trong thời gian nhịn đói. Nếu hạ đường huyết không xẩy ra ở bệnh nhân nam sau thời gian 72 giờ nhịn đói và đặc biệt khi sự nhịn đói kéo dài này ngừng lại bởi giai đoạn luyện tập vừa phải thì chẩn đoán u đảo tụy là chưa chắc chắn.

Xác định tiền insulin (proinsulin)

Khác với người bình thường, nồng độ insulin của họ dưới 20% tổng số insulin phản ứng miễn dịch, những bệnh nhân u đảo tụy có tăng nồng độ proinsulin lên 30 - 90% tổng số insulin phản ứng miễn dịch.

Test kích thích bằng các chất tiết của tế bào β tụy

Test kích thích bằng các chất tiết của tế bào β tụy như tolbutamid glucagon hay leucin thưừng không cần thiết trong đa số các trường hợp nếu nồng độ insulin cơ sở được thấy là không bị ức chế và do đó tăng một cách không thích hợp trong thời gian hạ đường huyết do nhịn đói. Tuy nhiên ở một số bệnh nhân có nồng độ insulin lưu hành tương đối cố định, như thế là chưa đủ, kích thích có thể giúp ích. Cần nhớ rằng kết quả âm tính giả có thể xảy ra nếu khối u phân hóa kém và không có hạt.

Glucagon tiêm tĩnh mạch (1mg trong một phút) có thể có ích cho những bệnh nhân ở "ranh giới" tăng insulin không thích hợp lúc đói. Insulin huyết thanh tăng quá mức cơ sở là 200 µU/ml hoặc cao hơn trong 5 hay 10 phút ám chỉ mạnh mẽ có u đảo tụy, mặc dù các khối u kém phân hóa có thể không đáp ứng. Glucagon có lợi thế hơn tolbutamid trong điều chỉnh hơn là khêu gợi hạ đường huyết trong thời gian thử test kích thích và chẩn đoán cho 60 -70% bệnh nhân bị u đảo tụy.

Xác định vị trí các u tế bào β tụy trước phẫu thuật

Một biến đổi đầy hứa hẹn các thùy của tụy trong chụp động mạch chọn lọc đồng thời với lấy máu tĩnh mạch gan để định lượng insulin trong khi bơm phân tán calci chọn lọc trong động mạch của những thùy tụy này. Người ta tìm thấy calci có tác dụng lợi tiết chỉ với các u đảo tụy và không có tác dụng với tổ chức đảo tụy bình thường. Vì thế, sự tăng nồng độ insulin ở gan chỉ ra vị trí thùy của các u đảo tụy. Chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ chẩn không giúp ích trong định vị u đảo tụy trước phẫu thuật bởi vì chúng không phân biệt đựợc các u nhỏ trong tụy. Hiện tại chụp cộng hưởng từ chuyển động với nhiều hình ảnh trong thời gian tiêm chất cản quang là phương pháp định vị trước phẫu thuật thuật tốt nhất và cần tiến hành siêu âm trong phẫu thuật như là phương pháp để xác định vị trí các u nhỏ nằm trong tụy không sờ thấy được khi làm thủ thuật mở bụng.

Thông tĩnh mạch tụy qua gan qua da với thử nghiệm insulin cũng có ích trong việc định vị các u đảo tụy nhỏ. Nó đặc biệt giúp ích khi nghi ngờ có đa u đảo tụy cũng như ở những bệnh nhân có u tuyến yên hay cận giáp cùng tồn tại. Tuy nhiên kỹ thuật này không được phổ biến do có bất tiện đáng kể và vì vậy người ta chỉ dùng nó trong những trường hợp mà phẫu thuật đầu tiên không thành công trong việc định vị khối u.

Điều trị

Biện pháp ngoại khoa

Tiến hành việc cắt bỏ u tế bào β tụy do bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm là cách điều trị lựa chọn. Ớ những bệnh nhân có một u tuyến lành tính, 90 - 95% được điều trị khỏi thành công ngay ở lần phẫu thuật đầu tiên khi mà siêu âm trong phẫu thuật được thực hiện bởi phẫu thuật viên thành thạo. Uống 300 - 400 mg Diazoxid/ngày ức chế giải phóng insulin từ đa số các khối u và có ích trong giai đoạn trước phẫu thuật để phòng ngừa các cơn hạ đường huyết. Hydrochlorothiazid 25 - 50 mg một ngày để trung hoà tác dụng gây phù và tăng kali thứ phát do điều trị bằng diazoxid cũng như để tăng cường nâng đường huyết của nó. Tuy nhiên liều hiệu quả của diazoxid có tác dụng dung nạp thấp trong thời gian dài, đặc biệt do nó gây chứng rậm lông ở phụ nữ, không nên xem nó là cách mong muôn thay cho phẫu thuật, cần theo dõi glucose máu trong toàn bộ quá trình phẫu thuật và dung dịch dextrose 10% cần được truyền với tốc độ 100ml/h hoặc nhanh hơn. Trong những trường hợp xác định chẩn đoán nhưng không xác định được u tuyến sau khi sờ nắn cẩn thận và sử dụng siêu âm trong phẫu thuật, không nên cắt bừa thân và đuôi tụy bởi vì khối u không sờ thấy mà siêu âm bỏ qua hay gắn vào phần đầu dầy của tụy nhất, phần mà được bỏ lại sau khi cắt gần toàn bộ. Phần lớn các nhà phẫu thuật chọn cách đóng vết rạch và đặt thông tĩnh mạch cửa qua gan qua da, lấy máu tĩnh mạch tụy để xác định vị trí trước khi lặp lại phẫu thuật. Hiện nay ít khi cần đến cắt bỏ tuy toàn bộ với quan điểm hiệu quả điều trị nội khoa bằng diazoxid lâu dài ở đa số bệnh nhân bị u đảo tụy.

Ăn kiêng và điều trị nội khoa

Ớ những bệnh nhân bị carcinom tế bào đảo tụy chức năng không phẫu thuật được và ở khoảng 5 - 10% trường hợp MEN-1 khi mà cắt bỏ gần toàn bộ tụy không chữa khỏi bệnh, việc dựa vào nuôi dưỡng thường xuyên là cần thiết. Do đa số khối u không đáp ứng với glucose, nuôi dưỡng bằng carbonhydrat 2 - 3 giờ một lần thường có hiệu quả trong phòng ngừa hạ đường huyết, mặc dù béo phì có thể trở thành một vấn đề. Glucagon cần có sẵn để sử dụng lúc khẩn cấp khi được chỉ định trong quá trình điều trị đái tháo đường, nhưng tác dụng có lợi của nó có thể mất đi do kích thích đồng thời sự tiết insulin từ khối u. Diazoxid, uống 300 - 600 mg/ngày, có lợi cùng với điều trị bằng thuốc lợi tiểu thiazid để kiểm soát sự giữ natri. Khi bệnh nhân không có khả năng dung nạp với diazoxid do rối loạn ở dạ dày ruột, chứng rậm lông hay phù, chất chẹn kênh calci verapamil có thể có lợi trong khía cạnh ức chế của nó lên sự giải phóng insulin từ tế bào u đảo tụy. Octreotid, một chất tương tự octapeptid tổng hợp tác dụng kéo dài của somatostatin, được sử dụng để ức chế sự giải phóng hormon từ nhiều khối u nội tiết, bao gồm cả u đảo tụy không phẫu thuật được. Khi hạ đường huyết dai dẳng sau cố gắng ngoại khoa cắt bỏ u đảo tụy và nếu diazoxid hay verapamil có dung nạp kém hay không hiệu quả, thử dùng 50 µg acetat octreotid tiêm dưới da 2 lần một ngày kết hợp với các bữa ăn nhỏ nhiều lẩn có thể kiểm soát các cơn hạ đường huyết, streptozocin có ích trong việc làm giảm bài tiết insulin ở carcinom tế bào đảo tụy và liều hiệu quả đạt được mà không gây độc thận quá mức trong thử nghiệm sớm đặc trưng.

Tiên lượng

Khi u tiết insulin được chẩn đoán sớm và điều trị ngoại khoa, có thể phục hồi hoàn toàn mặc dù tổn thương não sau quá trình hạ đường huyết nghiêm trọng kéo dài là không thể đảo ngược. Tỉ lệ sống sót tăng rõ rệt ở những bệnh nhân bị carcinom tế bào đảo tụy được điều trị bằng streptozopin, với việc giảm khối lượng khối u cũng như giảm chứng tăng insulin.

Bài viết cùng chuyên mục

Đa u tuyến nội tiết

Điều trị ngoại khoa với cường cận giáp trong MEN 1 có thể giảm bệnh thời gian dài nhưng hay tái phát, cắt tuyến cận giáp triệt để có thể gây suy cận giáp vĩnh viễn.

Vô kinh thứ phát

Thăm khám vùng khung chậu cẩn thận để kiểm tra sự phát triển tử cung và phần phụ và làm phiến đồ âm đạo và pap để đánh giá ảnh hưởng của estrogen.

Vô kinh tiên phát

Bệnh nhận bị vô kinh tiên phát đòi hỏi phải hỏi tiền sử và thăm khám thực thể tìm ra những triệu chứng đáng lưu ý dưới đây. Đau đầu hoặc thị trường bất thường chỉ ra u tuyến yên hoặc vùng dưới đồi.

Hạ đường huyết do Pentamidin

Tiếp theo liệu trình điều trị đầy đủ bằng pentamidin, cần theo dõi glucose máu lúc đói hay glycohemoglobin sau đó để đánh giá phạm vi phục hồi tế bào β tụy hoặc di chứng tổn thương.

Hạ đường huyết do bệnh lý miễn dịch

Muộn hơn sau khi phần lớn thức ăn được hấp thu, nồng độ insulin cao một cách không thích hợp phân ly khỏi phần kháng thể gắn vào nó, gây ra hạ đường huyết.

Hạ đường huyết giả tạo

Khi nghi ngờ sulfonylurea là nguyên nhân gây hạ đường huyết giả tạo, có thể cần đến test hóa học với huyết tương để phát hiện sự có mặt của những thuốc này.

Hạ đường huyết liên quan với rượu

Việc phòng ngừa bao gồm ăn thức ăn thích hợp trong thời gian uống rượu. Điều trị bao gồm sử dụng glucose để bổ sung dự trữ glycogen cho đến khi quá trình tạo mới glucose được phục hồi.

Hạ đường huyết sau bữa ăn

Ở những bệnh nhân được ghi nhận là hạ đường huyết trên cơ sở cơ năng, việc giảm phần carbonhydrat trong chế độ ăn trong khi tăng tần số.

Hạ đường huyết do u ngoài tụy

Chẩn đoán cận lâm sàng dựa trên hạ đường huyết lúc đói kết hợp với nồng độ insulin huyết thanh. Nồng độ này nói chung dưới 8 µU/mh. Cơ chế tác dụng hạ đường huyết của những khối u này vẫn chưa rõ.

Các trạng thái hạ đường huyết

Hạ đường huyết lúc đói có thể xảy ra trong các rối loạn nội tiết nhất định như giảm năng tuyến yên, bệnh Addison hoặc chứng phù niêm, trong các rối loạn liên quan với giảm chức năng gan.

Nhiễm toan lactic

Đặc điểm lâm sàng của nhiễm toan lactic là tăng thông khí rõ rệt. Khi nhiễm toan lactic là thứ phát do thiếu oxy tổ chức hay truy mạch, dấu hiệu lâm sàng khác nhau.

Hôn mê tăng thẩm thấu tăng đường huyết không có nhiễm ceton

Thiếu insulin là một phần tương đối có thể làm khởi phát hội chứng bằng cách làm giảm sử dụng glucose ở gan. Khi glucose niệu nhiều chắc chắn lượng nước mất đi lớn.

Nhiễm toan ceton do đái tháo đường

Nhiễm toan ceton, có thể là biểu hiện ban đầu của đái tháo đường typ 1, hoặc là kết quả của việc tăng nhu cầu insulin ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1, trong thời gian nhiễm khuẩn.

Biến chứng mạn tính của đái tháo đường

Ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1, biến chứng do bệnh thận giai đoạn cuối là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong, trong khi bệnh nhân đái tháo đường typ 2 thì bệnh ở các động mạch lớn.

Các bước trong xử trí bệnh nhân đái tháo đường

Việc điều trị cần phải được định rõ trên cơ sở typ đái tháo đường và nhu cầu riêng biệt của từng bệnh nhân. Tuy nhiên, những nguyên tẳc chung nhất định cần được phác thảo.

Đái tháo đường

Đái tháo đường, là một hội chứng với rối loạn chuyển hóa, và tăng đường huyết không thích hợp, hoặc là do giảm bài tiết insulin.

Sử dụng glucocorticoid trên lâm sàng

Điều trị glucocorticoid toàn thân kéo dài gây ra một loạt các tác dụng phụ có thể đe doạ tính mạng. Bệnh nhân nên được thông tin một cách tỉ mỉ về các tác dụng phụ có thể có trong quá trình điều trị bằng glucocorticoid.

Hội chứng Turner: loạn phát triển sinh dục

Các trẻ gái có hội chứng Turner được chẩn đoán khi sinh do chúng có xu hướng bé và có thể thấy phù bạch huyết nặng. Chẩn đoán đối với trẻ lớn khi có biểu hiện hình thể ngắn.

Giảm năng tuyến sinh dục nam

Việc đánh giá giảm năng tuyến sinh dục, bằng cách đo tertosteron và tertosteron tự do trong huyết thanh, mức testoteron huyết thanh thấp được đánh giá cùng với LH và FSH.

Tăng Aldosteron tiên phát

Chẩn đoán phân biệt tăng aldosteron bao gồm các nguyên nhân khác gây giảm kali ở bệnh nhân có tăng huyết áp vô căn.

Rậm lông và nam hóa

Tăng 17 ketosteroid niệu kết hợp nồng độ huyết thanh của DHEAS và androstenedion tăng trong các trường hợp bệnh lý thượng thận, còn do các nguyên nhân khác thì nồng độ các chất trên thay đổi.

Hội chứng Cushing

Nguyên nhân phổ biến nhất là do sử dụng glucocorticoid quá liều sinh lý, hiếm hơn là do vỏ tuyến thượng thận tự động sản xuất quá nhiều corticosteroid.

Suy vỏ thượng thận mạn tính: bệnh addison

Bệnh Addison là một bệnh ít phổ biến, do sự phá hủy hoặc rối loạn chức năng của vỏ thượng thận. Bệnh được đặc trưng bởi sự thiếu hụt mạn tính cortisol, aldosteron và androgen thượng thận, gây sạm da kín đáo hoặc rõ rệt.

Suy vỏ thượng thận cấp

Suy thượng thận cấp xảy ra do thiếu cortisol là một tình trạng cấp cứu. Đợt cấp có thể xảy ra trong quá trình điều trị suy thượng thận mạn tính không đây đủ hoặc là biểu hiện suy thượng thận.

Bệnh Paget xương

Đau xương thường là triệu chứng đầu tiên. Các xương mềm nên dễ bị cong xương chày, gù lưng và hay gẫy dù với chấn thương nhẹ. Nếu tổn thương xương sọ.

Nhuyễn xương

Giảm sự khoáng hóa của khung xương đang tăng trưởng ở lứa tuổi ấu thơ gây ra biến dạng xương (còi xương), còn giảm sự khoáng hóa ở người lớn gây ra chứng nhuyễn xương.

Loãng xương

Loãng xương là bệnh xương do chuyển hóa thường gặp nhất ở Mỹ và là nguyên nhân của hàng trăm nghìn các trường hợp gẫy xương hàng năm. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết gián tiếp do bệnh còn rất cao.

Cường cận giáp

Cường cận giáp gây bài tiết quá mức calci và phospho qua thận, dẫn đến tạo thành sỏi ở đường tiết niệu. Ít nhất có tới 5% sỏi thận là do bệnh này. Calci hóa lan tỏa nhu mô thận ít gặp hơn.

Suy cận giáp và giả suy cận giáp

Suy cận giáp cấp gây tetany với chuột rút cơ, kích thích, co rút bàn tay và co giật; bệnh nhân luôn có tê đau vùng quanh miệng, bàn tay và bàn chân.

Viêm tuyến giáp

Tự kháng thể tuyến giáp thường thấy nhất ở viêm tuyến giáp Hashimoto nhưng cũng có thể thấy ở các thể viêm tuyến giáp khác. Mức TSH huyết thanh cao.

Cường giáp

Dấu hiệu nhiễm độc giáp có thể bao gồm nhìn chằm chằm, dấu hiệu von Graefe, nhịp tim nhanh hoặc rung nhĩ, run đầu chi, da nóng ẩm, tăng phản xạ gân xương, tóc mềm, móng dễ gãy, và suy tim (hiếm gặp hơn)..

Suy giáp và phù niêm

Thiếu hụt hormon giáp có thể ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Mức độ nặng của bệnh từ suy giáp nhẹ và tình trạng suy giáp không nhận thấy được cho tới phủ niêm rõ rệt.

Các rối loạn thiếu hụt iod

Bướu cổ dịch tễ có thể trở thành bướu đa nhân và rất to; bướu to ra trong thời gian mang thai có thể gây ra triệu chứng chèn ép. Một số bệnh nhân bướu cổ địa phương có thể trở thành suy giáp.

Ung thư giáp trạng

Dấu hiệu chủ yếu của ung thư giáp trạng là nhân thuộc tuyến giáp sờ thấy được, chắc và không căng. Hạch vùng cổ trước có thể to ra. Ung thư giáp biệt hóa di căn.

Bướu nhân giáp trạng

Bệnh nhân được phát hiện tuyến giáp to cần hỏi thêm tiền sử gia đình và tiền sử bản thân về bệnh lý tuyến giáp, tiền sử điều trị vùng tia xạ vùng đầu hoặc vùng cổ hoặc tia xạ vùng khác.

Xét nghiệm, xạ hình chẩn đoán bệnh tuyến giáp

Các xét nghiệm về tuyến giáp rất hữu ích trong đánh giá các rối loạn của tuyến giáp. Tuy nhiên, nhiều bệnh và nhiều thuốc có khả năng làm thay đổi nồng độ thyroxin trong máu.

Tăng prolactin máu

Cường tiết prolactin do bất kỳ nguyên nhân gì cũng có thể gây suy sinh dục. Nam thường bị giảm tình dục, rối loạn cường dương và đôi khi bị vú to nhưng không bao giờ có chảy sữa.

Chứng khổng lồ và to đầu chi

Rất hiếm khi to đầu chi do các u tụy hoặc carcinoid phế quản hoặc u vùng dưới đồi tiết GH hoặc GHRH lạc chỗ. Đôi khi bệnh xuất hiện thoáng qua và tiếp sau là suy tuyến yên bán phần.

Đái tháo nhạt

Đái tháo nhạt là bệnh ít gặp, có đặc điểm là người bệnh luôn có cảm giác khát và số lượng nước tiểu rất nhiều, tỷ trọng thấp. Các tính chất khác của nước tiểu bình thường.

Suy tuyến yên

Nguyên nhân có thể do các tổn thương chiếm chỗ như adenoma tuyến yên, u não hoặc các phình mạch, xuất huyết não, ung thư di căn não, u hạt, bệnh u hạt tế bào Langerhans đa ổ và áp xe tuyến yên.

Nhận biết biểu hiện thường gặp trong bệnh nội tiết

Béo phì là bệnh thường gặp nhưng hiếm khi tìm thấy nguyên nhân về nội tiết mà thường là do các nguyên nhân khác. Đa số người béo phì không thừa nhận là do họ ăn nhiều.

U tụy tế bào tiểu đảo

Các u tế bào tiểu đảo có thể tiết hormon lạc chỗ củng với hormon tự nhiên, thường phối hợp gây ra hàng loạt các hội chứng lâm sàng. Chúng có thể tiết ACTH gây hội chứng Cushing.

Khối u tế bào ưa crom

Bên cạnh các triệu chứng nêu trên, một số bệnh nhân có thể thay đổi tâm thần hoặc lẫn lộn, động kinh, tăng đường máu, mạch nhanh, hạ huyết áp, dị cảm hoặc hiện tượng Raynaud.