- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết
- Các trạng thái hạ đường huyết
Các trạng thái hạ đường huyết
Hạ đường huyết lúc đói có thể xảy ra trong các rối loạn nội tiết nhất định như giảm năng tuyến yên, bệnh Addison hoặc chứng phù niêm, trong các rối loạn liên quan với giảm chức năng gan.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hạ đường huyết tự nhiên ở người lớn có hai typ chủ yếu: lúc đói và sau bứa ăn. Hạ đường huyết lúc đói thường bán cấp hoặc mạn và thường có kèm với giảm lượng đường ở mô thần kinh như là biểu hiện chính của nó. Hạ đường huyết sau bữa ăn tương đối cấp và thường được báo trước bằng các triệu chứng hệ thần kinh tự quản bộc phát (toát mồ hôi, đánh trống ngực, lo lắng, run rẩy).
Trong mẫu máu chọn lọc, cần thiết phải làm lạnh nhanh và phân tách máu để loại bỏ hồng cầu do chúng tiếp tục phân hủy glucose ở nhiệt độ bình thường vả là nguồn gốc gây sai lệch kết quả về nồng dộ lactat huyết tương cao. Huyết tương dông lạnh vẫn bền vững để làm xét nghiệm tiếp theo.
Hạ đường huyết lúc đói có thể xảy ra trong các rối loạn nội tiết nhất định như giảm năng tuyến yên, bệnh Addison hoặc chứng phù niêm, trong các rối loạn liên quan với giảm chức năng gan như suy gan hay nghiện rượu cấp, đặc biệt ở bệnh nhân cần thẩm phân. Những điều kiện này thường rõ ràng và hạ đường huyết chỉ là bệnh cảnh thứ phát. Khi hạ đường huyết lúc đói là biểu hiện đầu tiên xuất hiện ở người lớn mà không có rối loạn nội tiết rõ ràng hoặc chuyển bệnh hóa bẩm sinh từ tuổi ấu thơ, những khả năng chẩn đoán chủ yếu bao gồm (1) chứng tăng insulin do u tế bào β tụy hoặc do sử dụng insulin (hay sulfonylurea) thiếu kiểm soát; (2) hạ đường huyết do các khối u ngoài tụy không tiết insulin.
Bảng. Các nguyên nhân hạ đường huyết thường gặp1
1Khi không có các rồi loạn nội tiết, thận hoặc gan rõ rệt trên lâm sàng và loại bỏ việc điều trị đái tháo đường bằng các thuốc hạ đường huyết
Hạ đường huyết sau bữa ăn (phản ứng) có thể phân loại thành hạ đường huyết sớm (trong vòng 2 - 3 giờ sau bữa ăn) hoặc muộn (3 - 5 giờ sau bữa ăn). Hạ đường huyết sớm, hay dinh dưỡng, xảy ra khi chuyển nhanh lượng carbohydrat ăn vào trong ruột và tiếp theo bằng hấp thu nhanh glucose và tăng tiết insulin. Điều này có thể thấy sau phẫu thuật dạ dày - ruột và có liên quan đặc biệt với hội chứng tháo nhanh sau cắt dạ dày. Trong một số trường hợp nó là cơ năng và có thể biểu hiện sự hoạt động quá tích cực của hệ thần kinh phó giao cảm. Hiếm khi nó là hậu quả do khiếm khuyết trong phản ứng điều hoà ngược như thiếu hormon tăng trưởng, glucagon, cortisol hoặc các đáp ứng của hệ thần kinh tự quản.
Hạ đường huyết liên quan với rượu là do tiêu glycogen của gan kết hợp, với ức chế sản xuất glucose do rượu. Điều này hay gặp nhất ở những người nghiện rượu kém dinh dưỡng nhưng có thể xảy ra ở bất cứ ai không có khả năng ăn uống sau cơn say rượu cấp tiếp theo bằng viêm dạ dày và nôn.
Hạ đường huyết do bệnh lý miễn dịch là những trường hợp cực hiếm mà trong đó kháng thể kháng insulin hay kháng thể với thụ thể insulin xuất hiện tự phát. Trong trường hợp đầu, cơ chế có lẽ liên quan với tăng phân ly khỏi hệ tuần hoàn của insulin bị gắn. Khi tìm thấy kháng thể với thụ thể insulin, phần lớn bệnh nhân không có hạ đường huyết mà có đái tháo đường kháng insulin nghiêm trọng và chứng gai đen. Tuy nhiên, trong diễn biến bệnh ở nhửng bệnh nhân này, các kháng thể kháng thụ thể insulin nhất định xuất hiện với hoạt động chủ vận giống tác dụng của insulin gây hạ đường huyết nghiêm trọng.
Hạ đường huyết giả tạo là hạ đường huyết tự gây ra do tự sử dụng không theo chỉ định insulin hay sulfonylurea.
Bài viết cùng chuyên mục
Suy tuyến yên
Nguyên nhân có thể do các tổn thương chiếm chỗ như adenoma tuyến yên, u não hoặc các phình mạch, xuất huyết não, ung thư di căn não, u hạt, bệnh u hạt tế bào Langerhans đa ổ và áp xe tuyến yên.
Hạ đường huyết sau bữa ăn
Ở những bệnh nhân được ghi nhận là hạ đường huyết trên cơ sở cơ năng, việc giảm phần carbonhydrat trong chế độ ăn trong khi tăng tần số.
Vô kinh thứ phát
Thăm khám vùng khung chậu cẩn thận để kiểm tra sự phát triển tử cung và phần phụ và làm phiến đồ âm đạo và pap để đánh giá ảnh hưởng của estrogen.
Hạ đường huyết do Pentamidin
Tiếp theo liệu trình điều trị đầy đủ bằng pentamidin, cần theo dõi glucose máu lúc đói hay glycohemoglobin sau đó để đánh giá phạm vi phục hồi tế bào β tụy hoặc di chứng tổn thương.
Hạ đường huyết liên quan với rượu
Việc phòng ngừa bao gồm ăn thức ăn thích hợp trong thời gian uống rượu. Điều trị bao gồm sử dụng glucose để bổ sung dự trữ glycogen cho đến khi quá trình tạo mới glucose được phục hồi.
Tăng Aldosteron tiên phát
Chẩn đoán phân biệt tăng aldosteron bao gồm các nguyên nhân khác gây giảm kali ở bệnh nhân có tăng huyết áp vô căn.
Hạ đường huyết do bệnh lý miễn dịch
Muộn hơn sau khi phần lớn thức ăn được hấp thu, nồng độ insulin cao một cách không thích hợp phân ly khỏi phần kháng thể gắn vào nó, gây ra hạ đường huyết.
Suy vỏ thượng thận cấp
Suy thượng thận cấp xảy ra do thiếu cortisol là một tình trạng cấp cứu. Đợt cấp có thể xảy ra trong quá trình điều trị suy thượng thận mạn tính không đây đủ hoặc là biểu hiện suy thượng thận.
Hạ đường huyết do u ngoài tụy
Chẩn đoán cận lâm sàng dựa trên hạ đường huyết lúc đói kết hợp với nồng độ insulin huyết thanh. Nồng độ này nói chung dưới 8 µU/mh. Cơ chế tác dụng hạ đường huyết của những khối u này vẫn chưa rõ.
Khối u tế bào ưa crom
Bên cạnh các triệu chứng nêu trên, một số bệnh nhân có thể thay đổi tâm thần hoặc lẫn lộn, động kinh, tăng đường máu, mạch nhanh, hạ huyết áp, dị cảm hoặc hiện tượng Raynaud.
Nhuyễn xương
Giảm sự khoáng hóa của khung xương đang tăng trưởng ở lứa tuổi ấu thơ gây ra biến dạng xương (còi xương), còn giảm sự khoáng hóa ở người lớn gây ra chứng nhuyễn xương.
Chứng khổng lồ và to đầu chi
Rất hiếm khi to đầu chi do các u tụy hoặc carcinoid phế quản hoặc u vùng dưới đồi tiết GH hoặc GHRH lạc chỗ. Đôi khi bệnh xuất hiện thoáng qua và tiếp sau là suy tuyến yên bán phần.
Suy vỏ thượng thận mạn tính: bệnh addison
Bệnh Addison là một bệnh ít phổ biến, do sự phá hủy hoặc rối loạn chức năng của vỏ thượng thận. Bệnh được đặc trưng bởi sự thiếu hụt mạn tính cortisol, aldosteron và androgen thượng thận, gây sạm da kín đáo hoặc rõ rệt.
Rậm lông và nam hóa
Tăng 17 ketosteroid niệu kết hợp nồng độ huyết thanh của DHEAS và androstenedion tăng trong các trường hợp bệnh lý thượng thận, còn do các nguyên nhân khác thì nồng độ các chất trên thay đổi.
Cường cận giáp
Cường cận giáp gây bài tiết quá mức calci và phospho qua thận, dẫn đến tạo thành sỏi ở đường tiết niệu. Ít nhất có tới 5% sỏi thận là do bệnh này. Calci hóa lan tỏa nhu mô thận ít gặp hơn.
Hạ đường huyết giả tạo
Khi nghi ngờ sulfonylurea là nguyên nhân gây hạ đường huyết giả tạo, có thể cần đến test hóa học với huyết tương để phát hiện sự có mặt của những thuốc này.
Bướu nhân giáp trạng
Bệnh nhân được phát hiện tuyến giáp to cần hỏi thêm tiền sử gia đình và tiền sử bản thân về bệnh lý tuyến giáp, tiền sử điều trị vùng tia xạ vùng đầu hoặc vùng cổ hoặc tia xạ vùng khác.
Suy giáp và phù niêm
Thiếu hụt hormon giáp có thể ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Mức độ nặng của bệnh từ suy giáp nhẹ và tình trạng suy giáp không nhận thấy được cho tới phủ niêm rõ rệt.
Nhận biết biểu hiện thường gặp trong bệnh nội tiết
Béo phì là bệnh thường gặp nhưng hiếm khi tìm thấy nguyên nhân về nội tiết mà thường là do các nguyên nhân khác. Đa số người béo phì không thừa nhận là do họ ăn nhiều.
U tụy tế bào tiểu đảo
Các u tế bào tiểu đảo có thể tiết hormon lạc chỗ củng với hormon tự nhiên, thường phối hợp gây ra hàng loạt các hội chứng lâm sàng. Chúng có thể tiết ACTH gây hội chứng Cushing.
Giảm năng tuyến sinh dục nam
Việc đánh giá giảm năng tuyến sinh dục, bằng cách đo tertosteron và tertosteron tự do trong huyết thanh, mức testoteron huyết thanh thấp được đánh giá cùng với LH và FSH.
Suy cận giáp và giả suy cận giáp
Suy cận giáp cấp gây tetany với chuột rút cơ, kích thích, co rút bàn tay và co giật; bệnh nhân luôn có tê đau vùng quanh miệng, bàn tay và bàn chân.
Cường giáp
Dấu hiệu nhiễm độc giáp có thể bao gồm nhìn chằm chằm, dấu hiệu von Graefe, nhịp tim nhanh hoặc rung nhĩ, run đầu chi, da nóng ẩm, tăng phản xạ gân xương, tóc mềm, móng dễ gãy, và suy tim (hiếm gặp hơn)..
Các rối loạn thiếu hụt iod
Bướu cổ dịch tễ có thể trở thành bướu đa nhân và rất to; bướu to ra trong thời gian mang thai có thể gây ra triệu chứng chèn ép. Một số bệnh nhân bướu cổ địa phương có thể trở thành suy giáp.
Hôn mê tăng thẩm thấu tăng đường huyết không có nhiễm ceton
Thiếu insulin là một phần tương đối có thể làm khởi phát hội chứng bằng cách làm giảm sử dụng glucose ở gan. Khi glucose niệu nhiều chắc chắn lượng nước mất đi lớn.