Glocom góc mở

2016-07-23 10:08 AM

Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Bắt đầu âm ỉ ở nhóm người cao tuổi.

Không có triệu chứng ở các thời kỳ sớm.

Mất dần dần thị lực chu biên trong vòng nhiều năm, kết qủa là thị lực hình ống.

Tăng nhãn áp vĩnh viễn phối hợp với lõm gai thị hình đĩa.

Dấu hiệu "nhìn thấy quầng xanh đỏ quanh ánh đèn" không xuất hiện trừ khi nhãn áp rất cao.

Nhận định chung

Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.

Nguyên nhân của sự giảm mức độ thoát ra ngoài của thủy dịch trong glocom góc mở vẫn chưa được xác định rõ. Bệnh ở cả hai mắt. Chưa thấy rõ vai trò của di truyền. Glocom xuất hiện ở giai đoạn sớm hơn trên người da đen và kết qủa là những tổn thương nặng hơn của thị thần kinh. Ngày càng thấy rõ các yếu tố khác hơn là mức độ của nhãn áp (đặc biệt biến đổi của mạch máu) có thể có vai trò trên một số người trong cơ chế gây bệnh của tổn thương thị thần kinh.

Ở Mỹ ước lượng có 1- 2% người trên 40 tuổi bị glocom. Trong đó, khoảng 25% không được phát hiện. Khoảng 90% các trường hợp glocom thuộc loại góc mở.

Dấu hiệu lâm sàng

Khởi đầu bệnh nhân bị glocom gđc mở không có triệu chứng.

Khi khám bệnh, có thể có lõm gai nhẹ được quan sát như một sự tăng lên (hoặc một sự không đồng đều giữa hai mắt) của tỷ lệ giữa đường kính của lõm gai với đường kính của toàn bộ gai thị. Biến đổi của lớp sợi của thị thần kinh có thể được quan sát ở giai đoạn sớm hơn trên một số bệnh nhân. Thị trường thu hẹp dần nhưng thị lực trung tâm còn tồn tại tốt đến giai đoạn muộn của bệnh.

Đo nhãn áp, soi đáy mắt và tìm biến đổi của thị trường trung tâm là 3 xét nghiệm chính để chẩn đoán và đánh giá liên tục tiến triển của glocom. Nhãn áp bình thường thay đổi từ 10 - 21 mmHg. Tuy nhiên, trừ trường hợp cơn cấp diễn, chẩn đoán không bao giờ dựa vào đo nhãn áp, một lần độc nhất vì nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến nhãn áp (ví dụ thay đổi ban ngày). Những tăng nhất thời của nhãn áp không tạo nên glocom (cũng như những biến đổi nhất thời của huyết áp không tạo nên tăng huyết áp).

Kiểm tra thị trường có thể không thấy sự liên quan trên một số bệnh nhân.

Phòng bệnh

Trên tất cả những người ngoài 40 tuổi đặc biệt người da đen, cần tiến hành đo nhãn áp, soi đáy mắt cứ 3 - 5 năm một lần. Nếu thấy có yếu tố gia đình thì định kỳ kiểm tra cần rút ngắn hơn.

Điều trị

Timolol, một tác nhân ức chế bêta adrenergic là tác nhân hữu hiệu với điều trị glocom trong liều lượng 1 giọt 0,25% - 0,5% cứ 12 giờ/lần. Thuốc thay đổi là levobunolol 0,5% và metipranolol 0,1 - 0,6% mỗi thứ tra 2 lần/ngày.

Thuốc đó không nên dùng đối với bệnh nhân say máy bay hoặc đau tim. Betaxolol 0,25% hay 0,5% một tác nhân ức chế cảm thụ bêta có thể an toàn hơn đối với những bệnh nhân say máy bay. Tra mắt epinephrin 0,5 - 1% hoặc dipiveữin 0,1% có thể dùng ngày 2 lần, hoặc đơn độc hoặc phối hợp với betaxolol để khống chế sự giảm sút hiệu qủa của betaxolol so sánh với những tác nhân ức chế không chọn lọc. Pilocarpin là thuốc chuẩn được dùng hàng trăm năm nay, vẫn còn được dùng với đậm độ 1 - 4% ngày 3 - 4 lần. Do thuốc gây cận thị đối với bệnh nhân trẻ, và làm co hẹp đồng tử, ảnh hưởng đến thị lực trên bệnh nhân bị đục thể thủy tinh, nên thuốc được dùng phối hợp với hoặc một tác nhân ức chế beta epinephrin, hoặc dipivefrin. Chất ức chế anhydrase carbonic (ví dụ acetazolamid) được dùng cho đến khi phẫu thuật hoặc chiếu tia lazer, khi điều trị tại chỗ không thích hợp hoặc gây các tác dụng phụ, hoặc có thể dùng kéo dài nếu những sự chọn lựa trên không thích hợp. Điều trị mở bè bằng lazer ngày càng được dùng nhiều cùng với điều trị tại chỗ để kéo lùi thời gian phải phẫu thuật lazer cũng được nêu lên như một phương pháp điều trị khởi đầu. Cắt bỏ tổ chức bè là cần thiết đối với bệnh nhân mà nhãn áp duy trì ở mức cao dù điều trị bằng thuốc hay bằng lazer. Đồng thời nó có thể coi như một điều trị bắt đầu trên một số bệnh nhân. Điều trị phối hợp với fluorouracil dưới kết mạc hoặc mitomycin trong giai đoạn phẫu thuật ngày càng được phổ biến trong những trường hợp khó để tăng cường kết qủa cắt bỏ tổ chức bè.

Tiên lượng

Glocom mạn tính bắt đầu ở tuổi 40 - 45 không được điều trị sẽ dẫn đến mù hoàn toàn ở tuổi 60 - 65. Chẩn đoán sớm và điều trị sẽ duy trl thị lực có ích suốt đời trong đa số trường hợp.

Bài viết cùng chuyên mục

Những điều cần chú ý khi xử trí tổn thương mắt

Cảm giác bỏng hoặc đau nhức được tạo nên do tra thuốc hoặc đặt kính tiếp xúc, đôi khi xơ hóa hoặc sẹo hóa kết giác mạc có thể xuất hiện.

Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt

Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.

Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt

Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.

Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất

Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.

Viêm giác mạc do tia cực tím

Khám bằng đèn khe sau khi tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng sẽ phát hiện chấm tỏa lan bắt mầu ở cả hai giác mạc.

Tổn thương xé rách ở mắt

Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.

Đụng giập mắt

Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.

Xước giác mạc

Nếu nghi ngờ có trầy xước giác mạc mà không phát hiện được cần tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng vào túi kết mạc.

Dị vật nội nhãn

Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.

Di vật kết giác mạc

Cần nhấn mạnh là biểu mô giác mạc nguyên vẹn là một hàng rào có ích để chống nhiễm khuẩn nhưng một khi biểu mô bị tổn thương nó sẽ rất dễ dàng bị nhiễm khuẩn.

Viêm tổ chức hốc mắt

Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.

Bệnh mắt do bệnh tuyến giáp trạng

Biến chứng quan trọng nhất là giác mạc bị bộc lộ và thị thần kinh bị chèn ép, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sút thị lực trầm trọng.

Liệt vận nhãn

Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.

Phù gai thị

Viêm thị thần kinh gây giảm thị lực, nhiều khi có điểm mù trung tâm, mất cảm nhận màu sắc và tổn thương đồng tử tương đối do thần kinh quy tâm.

Viêm thần kinh thị giác

Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.

Tổn thương thần kinh thị giác phần trước do thiếu máu cục bộ

Trong hình thái không phổ biến, tiến triển của tổn thương thị thần kinh phần trước thiếu mảu không do viêm mạch máu đặc trưng bằng giảm thị lực tăng lên trong 6 tuần lễ từ khi bắt đầu đã áp dụng cách đục lỗ bao thị thần kinh.

Mù mắt thoáng qua

Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc.

Tắc động mạch và tắc nhánh trung tâm võng mạc

Viêm tĩnh mạch do tế bào khổng lồ cần được loại trừ đối với tất cả bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt do nguy cơ rất cao trong những ngày đầu của tổn thương ở mắt bên kia.

Tắc tĩnh mạch và tắc nhánh trung tâm vong mạc

Tất cả bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc cần được gửi ngay tới bác sỹ nhãn khoa để xác định chẩn đoán và xử trí.

Thoái hóa hoàng điểm liên quan đến tuổi cao

Trong thoái hóa tiết dịch, giảm thị lực bắt đầu nhanh hơn, mức độ nặng hơn và cả hai mắt bị đau nối tiếp nhau trong khoảng vài ba năm.

Thoát huyết dịch kính

Mắt không bị viêm và dấu hiệu chính của chẩn đoán là không thể quan sát đáy mắt mặc dầu thể thủy tinh vẫn trong suốt.

Bong võng mạc

Vùng thái dương trên là vị trí phổ biến nhất của bong, diện bong ngày càng phát triển nhanh chóng, làm cho thị lực cũng mất theo tương ứng.

Đục thể thủy tinh

Ngay ở các giai đoạn sớm nhất, đục thể thủy tinh có thể thấy được qua đồng tử tán rộng khi soi máy đáy mắt, đèn khe, hoặc bằng một ánh sáng cầm tay.

Viêm màng bồ đào

Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính, tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc.

Glocom cấp: glocom góc đóng

Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.

Khám mắt

Đo thị trường đối chiếu là một phương pháp rất có giá trị để phát hiện các thu hẹp thị trường.

Loét giác mạc

Bệnh nhân than phiền bị đau nhức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và giảm thị lực. Mắt đỏ, chủ yếu quanh rìa giác mạc, có thể có tiết dử mủ hoặc nước.

Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt

Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.

Viêm kết mạc

Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.

Tổn thương mí mắt và lệ bộ

Chắp là một loại u hạt của tuyến Meibomius có thể tiếp theo lẹo. Nó được đặc trưng bằng phù nề, chắc nhưng không căng của mí trên hoặc mí dưới.

Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng

Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.

Tật khúc xạ

Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị.

Những mối liên quan đến mắt

Bệnh nhân cận thị cần được báo động về nguy cơ bong võng mạc, và cần được thông báo về tầm quan trọng của việc mô tả những triệu chứng liên quan.

Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh mắt

Thông thường sợ ánh sáng là do tình trạng viêm của giác mạc, không có thể thủy tinh, viêm màng bồ đào hoặc bạch tạng.

Tổn thương võng mạc phối hợp với bệnh toàn thân

Tổn thương không tăng sinh được đặc trưng bằng tân mạch hoặc xuất phát từ đĩa thị giác hoặc từ những vòng quai mạch máu lớn.