Mù mắt thoáng qua

2016-07-31 10:52 PM

Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mù mắt thoảng qua ("mù lướt nhanh") có nguyên nhân đặc trưng là tắc nhánh cùng bên của động mạch cảnh. Giảm thị lực được mổ tả như có bức rèm che dọc trước mắt qua thị trường làm mất hoàn toàn thị lực trong vòng vài ba phút và một tình trạng nhìn bức rèm khi giai đoạn qua đi. Để giảm nguy cơ đột quỵ hiện những bệnh nhân bị hẹp ở mức độ cao (70 - 99%) động mạch cảnh trong cùng bên được tính đến cắt nội mạc động mạch. Bệnh nhân bị hẹp ở mức độ thấp (0 - 39%) có thể điều trị tốt hơn bằng thuốc (aspirin hoặc thuốc chống kết tập tiểu cầu). Điều trị tối ưu đối với bệnh nhân có mức độ thu hẹp trung bình chưa được xác định. Việc xử trí khởi đầu của thu hẹp động mạch cảnh có thể tiến hành bằng nghiên cứu phương pháp Doppler, nhưng chụp động mạch là thiết yếu để xác định sự đúng đắn của phẫu thuật đối với thu hẹp ở mức độ cao hơn. Tắc từ các nguồn tim cũng có thể là nguyên nhân gây mù thoảng qua. Làm siêu âm nội tim cần được tiến hành trên bệnh nhân trẻ, trên bất cứ bệnh nhân nào; có khả năng một nguồn tim gây tắc mạch tạo bệnh cảnh lâm sàng rõ ràng và trên tất cả các bệnh nhân đặt vấn đề cắt nội mạc động mạch cảnh. Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc. Trong trường hợp này những chất ức chế calci như nifedipin 60mg/ngày tỏ ra có hiệu qủa.

Những trường hợp mờ mắt tương tự có thể xuất hiện trong trường hợp tuần hoàn mắt bị kém do động mạch cảnh bị thu hẹp trầm trọng, hoặc do động mạch chủ bị phân tách. Mù mắt thoáng qua nhanh hơn (chi kéo dài vài ba giây đến 1 phút) xuất hiện ở cả hai mắt trên bệnh nhân có áp lực sọ não cao. Trong tất cả các trường hợp mù mắt từng đợt cần thiết phải đi khám bác sĩ nhãn khoa.

Các danh mục

Chẩn đoán và điều trị y học tuổi già

Tiếp cận bệnh nhân dự phòng và các triệu chứng chung

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư

Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ

Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt

Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng

Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp

Chẩn đoán và điều trị bệnh tim

Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết

Chẩn đoán và điều trị bệnh máu

Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa

Chẩn đoán và điều trị bệnh tuyến vú

Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa

Chẩn đoán và điều trị sản khoa

Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng

Đánh giá trước phẫu thuật

Chăm sóc giai đoạn cuối đời

Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nước điện giải

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bị bệnh thận

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần

Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết

Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng

Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán

Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm