Viêm màng bồ đào

2016-07-23 11:10 AM

Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính, tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm màng bồ đào tức là viêm của cả hệ thống màng bồ đào bao gồm mống mắt, thể mi và hắc mạc. Tuy nhiên bệnh có thể bắt đầu từ võng mạc (viêm võng mạc) hoặc viêm các mạch máu của võng mạc.

Viêm nội nhãn được phân loại thành viêm màng bồ đào trước, viêm màng bồ đào sau hoặc viêm toàn bộ màng bồ đào nhưng tổn thương có thể mạnh hơn ở phần trước hoặc phần sau màng bồ đào, hoặc cân bằng giữa hai phần. Còn có thể phân loại viêm màng bồ đào thành viêm cấp hoặc mạn và viêm có u hạt hoặc không có u hạt.

Dấu hiệu lâm sàng

Viêm màng bồ đào trước được đặc trưng bởi sự hiện diện của tế bào viêm và lóe sáng trong thủy dịch. Tế bào viêm còn có thể có mặt ở nội mô giác mạc như những lắng đọng tạo thành viêm giác mạc.

Trong viêm màng bồ đào u hạt, những tế bào viêm tạo thành "mỡ cừu" và có thể thấy các nốt trên mống mắt. Trong viêm không có u hạt, "mỡ cừu" nhỏ hơn và không có hạt trên mống mắt. Đôi khi viêm màng bồ đào u hạt có thể bị che lấp, thành viêm không có u hạt. Trong viêm màng bồ đào trước nặng, có thể có mủ trong tiền phòng (tập trung các tế bào bạch cầu thành phần) và có sợi fibrin trong tiền phòng. Nói chung trong tất cả các hình thái của viêm màng bồ đào, đồng tử nhỏ và với sự phát triển của dính sau (dính giữa mống mắt và vỏ trước của thể thủy tinh) đồng tử trở thành không đều. Viêm màng bồ đào trước không u hạt có xu hướng bắt đầu cấp diễn với đau nhức, đỏ, sợ ánh sáng và giảm thị lực. Viêm màng bồ đào trước u hạt ít có cơn cấp diễn hơn, thị lực chỉ mờ, và mắt đỏ nhẹ.

Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính. Tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc. Tổn thương mới có màu vàng, bờ không rõ còn tổn thương cũ có bờ rõ hơn và hay có sắc tố. Tổn thương mạch máu võng mạc có thể thấy tiếp giáp với các tổn thương trên hoặc tỏa lan hơn. Trong những trường hợp nặng, đục dịch kinh xuất hiện trước khi thấy các chi tiết của võng mạc. Viêm màng bồ đào sau thường kèm theo mất thị lực dần dần trên một mắt tương đối yên. Mất thị lực có thể do mờ và đục dịch kính, tổn thương bao gồm cả hoàng điểm (phù hoàng điểm), tắc tĩnh mạch võng mạc hoặc hiếm hơn, cả tổn thương thị thần kinh.

Nguyên nhân

Bệnh toàn thân phối hợp với viêm màng bồ đào trước không u hạt và HLA-B27 gây viêm thần kinh xương chậu, viêm đốt sống cứng khớp, hội chứng Reiter, bệnh vảy nến, viêm loét đại tràng và bệnh Crohn. Hội chứng Behcet gây cả viêm màng bò đào trước với mủ tiền phòng tái phát và viêm màng bồ đào sau với biến đổi mạnh của mạch máu võng mạc. Cả viêm herpes simplex và herpes zoster đều có thể gây viêm màng bồ đào trước không u hạt.

Những bệnh tạo nên viêm màng bồ đào trước u hạt cũng có xu hướng là nguyên nhân của viêm màng bồ đào sau. Các bệnh này bao gồm bệnh sarcoid, thường là ở cả hai mắt, lao, giang mai và bệnh do toxoplasma. Hội chứng Vogt-Koyanagi-Marada (viêm màng bồ đào hai bên phối hợp với rụng tóc, bạc lông mi, bạch biến, tai điếc) và bệnh nhãn do giao cảm. Giang mai tạo nên đáy mắt "muối tiêu" đặc trưng nhiều khi lại gây giảm sút thị lực rất nhẹ trừ khi có teo gai nguyên phát do giang mai. Trong bệnh do toxoplasma bẩm sinh, rõ ràng là có những giai đoạn trước đã viêm hắc - võng mạc. Viêm mạch máu võng mạc miễn dịch tự miễn và viêm viêm màng bồ đào trung gian là những điều kiện tự phát gây viêm màng bồ đào sau.

Bong võng mạc, u nội nhãn và u lympho của hệ thần kinh trung ương cũng có thể giống như viêm màng bồ đào.

Đánh giá và điều trị

Ngoài hỏi bệnh sử và khám lâm sàng, việc quan sát còn bao gồm xét nghiệm tốc độ lắng máu, thử nghiệm VDRL tìm giang mai và FTA-ABS, chiếu X quang tim phổi và X quang vùng xương chậu có thể có chỉ định.

Viêm màng bồ đào trước được điều trị có kết qủa với corticosteroid tại chỗ. Đôi khi tiêm corticoid quanh nhãn cầu thậm chí corticoid toàn thân có thể cần thiết. Việc làm giãn đồng tử rất cần thiết, để giảm nhẹ đau nhức và chống dính sau. Viêm màng bồ đào sau cần corticoid toàn thân hơn và đôi khi điều trị ức chế miễn dịch bằng azathioprin hoặc cyclosporin. Thông thường, không cần thiết làm giãn đồng tử.

Trong tất cả các trường hợp nếu xác định được nguyên nhân nhiễm khuẩn, cần điều trị hóa dược. Nhìn chung, tiên lượng đối với viêm màng bồ đào trước đặc biệt hình thái không u hạt tốt hơn là viêm màng bồ đào sau.

Xử trí bệnh nhân viêm màng bồ đào phải do thày thuốc nhãn khoa nhưng sự phối hợp với các chuyên khoa khác là cần thiết để xác định nguyên nhân và chỉ định liều lượng thuốc chống vi khuẩn, dùng liều cao corticosteroid toàn thân và các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân.

Bài viết cùng chuyên mục

Những điều cần chú ý khi xử trí tổn thương mắt

Cảm giác bỏng hoặc đau nhức được tạo nên do tra thuốc hoặc đặt kính tiếp xúc, đôi khi xơ hóa hoặc sẹo hóa kết giác mạc có thể xuất hiện.

Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt

Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.

Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt

Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.

Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất

Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.

Viêm giác mạc do tia cực tím

Khám bằng đèn khe sau khi tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng sẽ phát hiện chấm tỏa lan bắt mầu ở cả hai giác mạc.

Tổn thương xé rách ở mắt

Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.

Đụng giập mắt

Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.

Xước giác mạc

Nếu nghi ngờ có trầy xước giác mạc mà không phát hiện được cần tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng vào túi kết mạc.

Dị vật nội nhãn

Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.

Di vật kết giác mạc

Cần nhấn mạnh là biểu mô giác mạc nguyên vẹn là một hàng rào có ích để chống nhiễm khuẩn nhưng một khi biểu mô bị tổn thương nó sẽ rất dễ dàng bị nhiễm khuẩn.

Viêm tổ chức hốc mắt

Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.

Bệnh mắt do bệnh tuyến giáp trạng

Biến chứng quan trọng nhất là giác mạc bị bộc lộ và thị thần kinh bị chèn ép, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sút thị lực trầm trọng.

Liệt vận nhãn

Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.

Phù gai thị

Viêm thị thần kinh gây giảm thị lực, nhiều khi có điểm mù trung tâm, mất cảm nhận màu sắc và tổn thương đồng tử tương đối do thần kinh quy tâm.

Viêm thần kinh thị giác

Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.

Tổn thương thần kinh thị giác phần trước do thiếu máu cục bộ

Trong hình thái không phổ biến, tiến triển của tổn thương thị thần kinh phần trước thiếu mảu không do viêm mạch máu đặc trưng bằng giảm thị lực tăng lên trong 6 tuần lễ từ khi bắt đầu đã áp dụng cách đục lỗ bao thị thần kinh.

Mù mắt thoáng qua

Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc.

Tắc động mạch và tắc nhánh trung tâm võng mạc

Viêm tĩnh mạch do tế bào khổng lồ cần được loại trừ đối với tất cả bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt do nguy cơ rất cao trong những ngày đầu của tổn thương ở mắt bên kia.

Tắc tĩnh mạch và tắc nhánh trung tâm vong mạc

Tất cả bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc cần được gửi ngay tới bác sỹ nhãn khoa để xác định chẩn đoán và xử trí.

Thoái hóa hoàng điểm liên quan đến tuổi cao

Trong thoái hóa tiết dịch, giảm thị lực bắt đầu nhanh hơn, mức độ nặng hơn và cả hai mắt bị đau nối tiếp nhau trong khoảng vài ba năm.

Thoát huyết dịch kính

Mắt không bị viêm và dấu hiệu chính của chẩn đoán là không thể quan sát đáy mắt mặc dầu thể thủy tinh vẫn trong suốt.

Bong võng mạc

Vùng thái dương trên là vị trí phổ biến nhất của bong, diện bong ngày càng phát triển nhanh chóng, làm cho thị lực cũng mất theo tương ứng.

Đục thể thủy tinh

Ngay ở các giai đoạn sớm nhất, đục thể thủy tinh có thể thấy được qua đồng tử tán rộng khi soi máy đáy mắt, đèn khe, hoặc bằng một ánh sáng cầm tay.

Glocom góc mở

Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.

Glocom cấp: glocom góc đóng

Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.

Khám mắt

Đo thị trường đối chiếu là một phương pháp rất có giá trị để phát hiện các thu hẹp thị trường.

Loét giác mạc

Bệnh nhân than phiền bị đau nhức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và giảm thị lực. Mắt đỏ, chủ yếu quanh rìa giác mạc, có thể có tiết dử mủ hoặc nước.

Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt

Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.

Viêm kết mạc

Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.

Tổn thương mí mắt và lệ bộ

Chắp là một loại u hạt của tuyến Meibomius có thể tiếp theo lẹo. Nó được đặc trưng bằng phù nề, chắc nhưng không căng của mí trên hoặc mí dưới.

Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng

Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.

Tật khúc xạ

Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị.

Những mối liên quan đến mắt

Bệnh nhân cận thị cần được báo động về nguy cơ bong võng mạc, và cần được thông báo về tầm quan trọng của việc mô tả những triệu chứng liên quan.

Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh mắt

Thông thường sợ ánh sáng là do tình trạng viêm của giác mạc, không có thể thủy tinh, viêm màng bồ đào hoặc bạch tạng.

Tổn thương võng mạc phối hợp với bệnh toàn thân

Tổn thương không tăng sinh được đặc trưng bằng tân mạch hoặc xuất phát từ đĩa thị giác hoặc từ những vòng quai mạch máu lớn.