Cây mần tưới

2015-09-30 08:35 AM

Dùng trong, một số vùng dùng mần tưới ăn như một gia vị. Ngọn mần tưới non hái về rửa sạch ăn sống như rau thơm, hoặc mần tưới băm nhỏ đúc dồi chó, dồi lợn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin.

Tên khoa học Eupatorium staechadosmum Hance.

Thuộc họ Cúc Astcraceae (Compositae).

Mô tả cây

Cây mần tưới 

Cây mần tưới

Mần tưới là một loài cỏ có thể cao tới 1m, trung bình 50cm, cành phân nhánh nhiều, thân và cành nhẵn màu hơi tím, trên có những rãnh chạy dọc. Lá mọc đối, phiến lá hẹp, mép có răng cưa to và nông, dài 7-11cm, rộng 17-25mm, gân chính nổi rõ, nhiều gân phụ phần nhánh, phiến lá có màu hơi tím. Cụm hoa hình đầu, màu hơi tím, mọc ở đầu cành hay kẽ lá thành xim hai ngả. Cuống hoa có nhiêu lông ngán. Quả bế màu đen nhạt 5 cạnh. Mùa hoa ở miền Bắc: tháng 4-5.

Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang và được trồng nhiều nơi ở Việt Nam. Thường trồng làm hàng rào, hai bên đường vườn hoa, đường đì. Cách trồng rất đơn giản: Cắt cành thành từng đoạn dài 20-30cm, cắm xuống đất, hơi nghiêng, để hai hay ba đốt chìm dưới đất, sau 5-10 ngày là cây bén rễ và sống. Một hai tháng sau cây đã tốt, thường khi đó người ta dùng dao hay kéo cắt xén cho phẳng đẹp.

Muốn dùng mần tưới, người ta háì thân và lá hoặc nhổ toàn cây, dùng tươi hay phơi khô trong mát dùng dần.

Thành phần hóa học

Chỉ mới biết trong cây có tinh dầu.

Công dụng và liều dùng

Mần tưới là một vị thuốc dùng theo kinh nghiệm nhân dân: Thường nhân dân dùng để trừ bọ gà, mạt gà, bọ chét hay rệp, mọt, chấy rận.

Dùng trong, một số vùng dùng mần tưới ăn như một gia vị. Ngọn mần tưới non hái về rửa sạch ăn sống như rau thơm, hoặc mần tưới băm nhỏ đúc dồi chó, dồi lợn.

Nhân dân Trung Quốc dùng mần tưới uống làm thuốc lợi tiều, bổ dạ dày, chữa sốt, điều kinh.

Dùng trong: Ngày uống 50 đến 150g cây tươi dưới dạng thuốc sắc nếu dùng khô chỉ dùng 10-20g.

Dùng ngoài không kể liều lượng.

Đơn thuốc có mần tưới

Chống mọt đậu xanh, đậu đen, cau khô: Cho mần tưới vào hũ đựng đậu hay đựng cau.

Chống mạt gà họ chét họ chó: Hái cả cành cho vào ổ chó hay ổ gà sau khi đã dọn sạch phân, rác cũ, cứ 3-4 ngày thay một lần cho đến khi hết.

Trừ rệp: Hái cành mần tưới trải xuống dưới chiếu hay cho xuống gầm giường.

Chữa sốt, giúp sự tiêu hóa: Mần tưới khô 20g, nước 600ml, sắc còn 20ml chia 2 lần trong ngày và 15 phút trước 2 bữa ăn chính.

Bài viết cùng chuyên mục

Cây thốt nốt

Đường thốt nốt ngoài công dụng làm chất ngọt, nhân dân Campuchia dùng đường thốt nốt làm vị thuốc giải chất độc trong những trường hợp ngộ độc do mã tiền.

Cây rau muống

Trồng ở khắp nơi trong Việt Nam dùng làm rau ăn. Trong nhân dân còn dùng rau muống làm thuốc chù yếu giải độc. Dùng tươi, vò nát uống hay nấu với nước.

Cây thương lục

Cây thương lục mới di thực vào Việt Nam vào khoảng 10 năm trở lại đây. Trong Việt Nam, vốn có sẵn một loài có tên khoa học Phytolacca decandra L. nhưng ít phổ biến.

Cây dưa chuột

Dưa chuột chủ yếu được trồng để làm thức ăn, làm thuốc ở Ấn Độ và Ai Cập ít nhất từ trên 4.000 năm. Việc sử dụng này được lan truyền từ những nước ấy đến các dân tộc.

Đại phúc bì

Tác dụng thông tiểu tiện rất rõ rệt, thường dùng chữa các bệnh phù toàn thân, nhất là bụng.Trong đại phúc bì có những ancaloit trong hạt cau như arecolin, arecaidin.

Cây cà dái dê tím

Cây được trồng khắp nơi để lấy quả làm thức ăn. Người ta còn dùng quả làm thuốc. Quả làm thức ăn hay làm thuốc thu hái như nhau. Rễ đào về rửa sạch.

Cây lưỡi rắn

Người ta dùng toàn cây, thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa hạ, mùa thu lúc cây có hoa. Hái vế phơi khô hay sao vàng mà dùng.

Cây dứa

Ngoài quả dứa dùng để ăn, dứa gần đây đã trở thành nguyên liệu chiết bromelin dùng trong nhiều ngành công nghiệp và làm thuốc chữa bệnh.

Cây bòn bọt

Mọc hoang ở khắp nơi, nhưng hiện nay mới thấy khai thác ở Bắc Giang. Hái cành và lá về phơi khò, để dành khi cần dùng đến. Không cần chế biến gì đặc biệt.

Cây hoa hiên

Hoa hiên là một loại cò sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-50cm, rộng 2,5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch.

Cây rau đắng

Dịch chiết nước của rau đắng gây co bóp tử cung cô lập hay không cô lập của súc vật cái, làm tăng thời gian đông máu, tãng lượng nước tiểu.

Cây mùi tây

Mùi tây vốn không có ở Việt Nam, mà do di thực, không rõ từ bao giờ, dùng làm rau ăn. Người ta dùng quả, rễ và lá làm thuốc. Quà và rễ thường dùng khô.

Cây dành dành

Trong dành dành có một glucozit màu vàng gọi là gacdenin. Khi thủy phân, cho phần không đường gọi là gacdenidin tương tự với chất α croxetin, hoạt chất của vị hồng hoa.

Cỏ thiên thảo (cây cứt lợn)

Cỏ thiên thảo cao 0,75 đến 1,25mm. Thân vuông, có lông nhất là ở ngọn. Lá mọc đối, có cuống rõ, phiến hình bầu dục, có lông ở cả hai mặt, dài 7 - 15cm.

Râu ngô

Râu ngô uống vào làm tăng sự bài tiết của mật, nước mật lỏng hơn và tỷ trọng nước mật giảm đi, lượng bilirubin trong máu cũng giảm.

Cây trạch tả

Chủ yếu làm thuốc thông tiểu chữa bệnh thủy thũng trong bệnh viêm thận. Ngày dùng từ 10 đến 30g dưới dạng thuốc sắc hoặc dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Cây nàng nàng

Cây nhó, cành vuông phủ đầy lông hình sao màu xám, hay trắng nhạt. Lá mọc đối, hình mác hai đầu nhọn, mép có răng cưa, dài 7- 20cm, rộng 2,5 - 11cm.

Cây cỏ may

Cỏ may mọc hoang ở khắp nơi trong Việt Nam. Còn mọc ở các nước khác vùng châu Á như ấn độ, Thái Lan, Miến Điện, nam Trung Quốc.

Cây mã thầy

Củ mã thầy, miền Nam gọi là củ năng, to bằng củ hành, ngoài có lớp vỏ màu nâu đen. Khi dùng thì cạo bỏ lớp vỏ này rồi ăn sống hay nấu với thịt. Có khi được nấu chè ăn cho mát.

Nấm phục linh

Chưa rõ hoạt chất là gì. Tuy nhiên, trong phục linh người ta đã phân tích có chất đường đặc biệt của phục linh: Pachymoza, glucoza, fructoza và chất khoáng.

Cây râu mèo

Nước sắc hay nước pha lá râu mèo làm tăng lương nước tiểu, đồng thời tăng cả lượng clorua, lượng urê và lượng axit uric.

Cây thạch vĩ

Tính vị theo tài liệu cổ. Vị đắng ngọt, hơi hàn, vào hai kinh phế và bàng quang. Có tác dụng lợi tiểu, thông lâm, thanh thấp nhiệt. Làm thuốc lợi tiểu.

Cây đa

Dùng tua rễ đa làm thuốc lợi tiểu dùng trong những trường hợp xơ gan kèm cổ trướng với liều 100-150g tươi trên người lớn trong 1 ngày dưới dạng thuốc sắc.

Cây mía

Vỏ cây mía chứa chất béo gồm axit oleic, axit linolic, axitpanmatic.axit stearic và axit capronic. Ngoài ra còn lexitin, phytosterin.

Cây xương sáo

Cây mọc hoang dại và được trồng nhiều ở vùng An Giang Châu Đốc để làm thuốc và nấu thạch đen dùng uống cho mát.