Bài giảng viêm da mủ (Pyodermites)

2013-08-18 12:10 PM

Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, vệ sinh kém, ngứa gãi, sây xát da.…tạp khuẩn trên da tăng sinh, tăng độc tố gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ. 

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Bình thường trên da có nhiều tạp khuẩn, phần lớn là tụ cầu và liên cầu, nhiều nhất là ở những vùng lắm lông và lắm mồ hôi, các nếp kẽ, lỗ chân lông. Nơi tập trung mồ hôi, chất bã nhờn, bụi bẩn cũng là cửa ngõ để vi khuẩn xâm nhập vào da.

Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, vệ sinh kém, ngứa gãi, sây xát da.…tạp khuẩn trên da tăng sinh, tăng độc tố gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ. 

Người ta thường phân thành viêm da mủ do tụ cầu và viêm da mủ liên cầu, nhưng ít khi hai loại cầu khuẩn đó hoạt động riêng rẽ mà phần nhiều cùng phối hợp gây bệnh.

Điều trị viêm da mủ không những chỉ điều trị chứng nhiễm khuẩn tại chỗ ngoài da, mà còn phải chú ý nâng cao sức đề kháng, thay đổi phản ứng của cơ thể, nhất là đối với viêm da mủ mãn tính, tái phát dai dẳng.

Trong bộ đội thường gặp ở những người công tác lao động, chiến đấu căng thẳng, hay bị chấn thương xây sát trên da, vệ sinh thiếu sót, dinh dưỡng kém. Viêm da mủ còn là tổn thương thứ phátcủa nhiều bệnh ngoài da gây ngứa như ghẻ Eczema, sẩn cục…

Viêm da mủ do tụ cầu

Tụ cầu thường gây tổn thương viêm nang lông, biểu hiện bằng những mụn mủ ăn khớp với lỗ chân lông, rải rác hoặc thành cụm ở bất cứ vùng da nào trừ lòng bàn tay, bàn chân.

Có những thể bệnh chính sau:

Viêm nang lông nông(superficial folliculitis) còn gọi là chốc Bockhart)

Là tình trạng viêm nông ở đầu lỗ chân lông. Ban đầu lỗ chân lông hơi sưng đỏ, đau, sau thành mụn mủ nhỏ, quanh chân lông có quầng viêm. Vài ngày sau mụn mủ khô, để lại một vẩy tiết nâu xẫm tròn. Sau cùng vẩy bong không để lại sẹo.

Vị trí thường gặp ở đầu, trán, gáy, cằm, lưng. Ở mi mắt gọi là chắp. Ở da đầu trẻ em thường để lại sẹo nhỏ, trụi tóc lấm tấm.

Điều trị cũng giản đơn: chấm cồn Iốt 1-3%, dung dịch xanh methylen 1%. Bôi mỡ chloroxid 1%,kem silver,mỡ bactroban, mỡ fucidin

Viêm nang lông sâu Deep folliculitis)

Do tụ cầu vàng có độc tố cao.

Ban đầu chỉ là mụn mủ quanh lỗ chân lông, nhưng nhiễm khuẩn ngày càng sâu làm cho tổ chứcquanh nang lông nhiễm cộm. Viêm lan rộng và sâu hơn thành nhiều mụn mủ rải rác hoặc cụm lại thành đám đỏ, cứng cộm gồ gề nặn ra mủ.

Viêm nang lông sâu ở vùng cằm, mép, gáy, ria tóc,đầu. gọi là Sicosis, tiến triển dai dẳng hay tái phát.

Điều trị:

Tại chỗ bằng dung dịch sát trùng ( cồn Iốt 1-3% xanh methylen 1%) mỡ kháng sinh Penixilin, Chloroxid 1%, oxyd vàng thuỷ ngân 10%.mỡ bactroban,mỡ fucidin.

Nếu nặng cho uống từng đợt kháng sinh chung.

Kết hợp cho thuốc giải cảm, an thần, nếu cần có thể cho tiêm vacxin tụ cầu.

Tránh trà sát mạnh làm vỡ mủ, lan mủ ra vùng da lân cận.

Đinh nhọt (furoncle)

Cũng là trạng thái viêm nang lông. Vì độc tố cầu khuẩn cao nên viêm toàn bộ nang lông, lan ra cả tổ chức xung quanh, làm hoại tử cả một vùng biểu hiện thành "ngòi" gồm tế bào, xác bạch cầu.

Vị trí hay gặp ở gáy, lưng, mông, các chi.

Tiến triển; Ban đầu nổi thành u đỏ, đau, quanh chân lông,nắn cứng cộm (Giai đoạn 1): Dần dần u mềm có triệu chứng ba động làm mủ,tạo ngòi.(Giai đoạn 2): Khoảng ngày thứ 8-10 nhọt mềm nhũn, vỡ mủ nặn ra một ngòi đặc sau đó lành sẹo (Giai đoạn 3).

Nếu đinh nhọt to có thể kèm theo sốt, nổi hạch đau ở vùng tương xứng.

Đinh nhọt ở lỗ tai giữa rất đau, nhân dân gọi là "đằng đằng".

Đinh nhọt ở vùng quanh miệng gọi là "đinh râu" rất nguy hiểm, có thể gây tắc tĩnh mạch, nhiễm trùng huyết không nên chích nặn sớm.

"Hậu bối "(carbuncle) còn gọi là đinh hương sen, là một cụm đinh nhọt gặp ở vùng gáy giữa hai bả vai, xương cùng. Do tụ cầu vàng độc tính cao, gây viêm lan sâu rộng đến chân bì và hạ bì làm hoại tử cả một vùng. Thường gặp ở người già, người suy yếu. Toàn thân bệnh nhân yếu mệt, sôt cao có triệu chứng nhễm khuẩn nhiễm độc nặng. Tại chỗ bị sưng nề, đỏ tím có nhiều mủ, nhiều ngòi, lỗchỗ như tổ ong. Có thể dẫn tới nhiễm khuẩn huyết, ở mông và xương cùng gây hoại tử hoặc loét có khi chạm vào mạch máu to làm chảy máu ồ ạt.
Nhọt bầy là nhiều đinh nhọt mọc liên tiếp đợt này đến đợt khác, dai dẳng hàng tháng. Thường gặpở người suy nhược lao tâm lao lực, hoặc đái đường.

Điều trị:

Đối với đinh nhọt ; không nên nặn chích sớm. Khi mới nổi sưng đỏ, cứng : chấm cồn I ốt 3-5% hoặc bôi ichthyol tinh chất, có điều kiện chạy sóng ngắn. Khi nhọt đã vỡ mủ nặn hết ngòi ra, chấm thuốc màu hoặc bôi mỡ kháng sinh, toàn thân cho uống hoặc tiêm một đợt kháng sinh.

Đối với đinh râu: tuyệt đối tránh chích nặn bôi cồn iod 3%. Kịp thời tiêm uống thuốc kháng sinh liều cao,phối hợp kháng sinh, kết hợp sinh tố C, thuốc giảm đau, chạy sóng ngắn.

Đối với hậu bối : Điều trị sớm bằng kháng sinh liều cao,phối hợp kháng sinh, sinh tố, thuốc nâng cao thể trạng. Khi đám tổn thương đã mềm thay băng hàng ngày,không chích rộng để tháo mủ vì dễ gây nhiễm khuẩn lan rộng.

Đối với nhọt bầy: Chú ý cải thiện điều kiện sinh hoạt , làm việc điều hoà, tránh rượu, cà phê thuốc lá, ăn ít đường. dùng từng đợt thuốc kháng sinh, an thần, giải cảm. Chú ý chống táo bón, điều hoà chức phận gan, điều trị đái đường nếu có.

Nhọt ổ gà (hidradenitis)

Do viêm nang lông, kèm theo viêm tuyến hôi tuyến bã ở vùng nách thành túi mủ sâu ở chân bì và hạ bì.

Nổi thành cục, ban đầu cứng sau mềm dần , vỡ mủ , rải rác hoặc thành cụm 

Tiến triển dai dẳng, hay tái phát nhất là về mùa hè.

Điều trị:

Bôi thuốc màu ,mỡ kháng sinh,tiêm uống kháng sinh. Nếu cần giải quyết bằng phẫu thuật như chích nặn các ổ viêm xơ hóa.

Viêm da mủ do liên cầu 

Chốc lây (Phỏng da impetigo contagiosa)

Trên thực tế trong bệnh chốc , tụ cầu và liên cầu thường phối hợp với nhau. Trẻ em hay bị hơn người lớn.

Thường bắt đầu ở đầu, cổ, mặt, các chi, từ đó lan ra các chỗ khác. Rất dễ lây nên còn gọi là chốc lây.

Bệnh bắt đầu bằng một phỏng nước nhỏ, lùng nhùng hình tròn, xung quanh có quầng viêm đỏ. Nước ban đầu trong dần dần thành mủ đục giai đoạn phỏng nước và phỏng mủ rất ngắn. Chẳngbao lâu đóng vẩy tiết vàng kiểu mật ong . Dưới lớp vẩy là một lớp chợt đỏ, nông, không cộm, vì tổn thương trong bệnh chốc rất nông.

Ở trẻ em chốc đầu thành từng đám vẩy vàng xẫm, dính bết tóc, dưới lớp vẩy da chợt đỏ, rớm nước. Ghẻ, và Eczema trẻ em dễ kèm theo chốc đầu.

Chốc rải rác toàn thân, có thể kèm theo sốt biến chứng viêm cầu thận cấp, nề cẳng chân, mi mắt do viêm cầu thận. Chốc thường gây hạch ở vùng tương ứng.

Điều trị:

Chốc có nhiều vẩy : đắp gạc chấm rửa các dung dịch sát khuẩn sau đó bôi thuốc màu.

Chốc có phỏng mủ chưa vỡ: dùng kim đã sát trùng chọc mủ ra, cho mủ thấm vào bông, không để mủ chảy lan ra vùng da lân cận . Sau đó chấm các loại thuốc màu như dung dịch milian xanhmethylen 1%,dd eosin 2% hoặc mỡ kháng sinh. như mỡ chlorocid 1% kem silver,mỡ bactroban. Nếu có sốt, nổi hạch nhiều: cho thêm kháng sinh uống.

Khi tắm gội, tránh kỳ cọ mạnh lên tổn thương.

Phòng bệnh:

Ở nhà trẻ cần phòng tránh lây lan không dùng chung chăn khăn mặt với người có bệnh.

Chốc loét (ecthyma)

Là một thể chốc, nhưng tổn thương lan sâu đến trung bì.

Thường gặp chốc loét ở bệnh nhân thiếu dinh dưỡng thiếu vệ sinh cơ thể yếu kém, có bệnh đái đường hoặc nghiện rượu.

Vị trí thường ở chi dưới, nhất là ở chi có giãn tĩnh mạch.

Bệnh bắt đầu như chốc, bằng một phỏng nước hoặc một phỏng mủ. Sau khi phỏng mủ vỡ, đóng vẩy dày màu vàng xẫm hoặc nâu đen , có vảy thành nhiều lớp đùn cao lên gọi là vảyốc(rupia). Bóc vẩy để lại một vết loét đứng thành, nền tái, rớm mủ, ít nụ thịt. Da xung quanh vết loét tái tím, tiến triển dai dẳng, lâu lành.

Chốc loét nặng, tiến triển lâu ngày có thể thành loét sâu quảng. Vết loét có ranh giới rõ, thường là hình bầu dục, có khi có gờ, loét rộng và sâu nền bẩn, tổ chức da xung quanh xơ cứng, màu tái tím, tiến triển rất dai dẳng.

Điều trị:

Rửa vết loét bằng dung dịch thuốc tím 1/4000, hoặc dung dịch rivanol 1%. Chấm dung dịch Nitrat bạc 0,25- 0,50%. Sau đó bôi mỡ kháng sinh.Toàn thân cho uống tiêm từng đợt kháng sinh.

Chiếu tia cực tím tại chỗ để kích thích lên da non.

Nâng cao thể địa bằng dinh dưỡng, sinh tố A, B1, C….

Hăm kẽ (intertrigo)

Có tác giả gọi làviêm bì thượng bì vi khuẩn (dermoepidermite microbienne).

Thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ em mập mạp, hoặc ở người lớn béo mập, ra mồ hôi nhiều.

Vị trí : các nếp cổ, kẽ bẹn, kẽ mông, kẽ sau tai, có khi ở rốn,các ngấn da ( đối với trẻ em thường gọi là hăm).

Các nếp kẽ trên thành đám đỏ, trợt, rớm dịch, phía ngoài thường có viền róc da mỏng. Do cọ sát, bẩn thỉu đám trợt loét chảy nước, chảy mủ, rất đau sót.

Nguyên nhân:

Ngoài liên cầu, cần chú ý đến vai trò của nấm candida albicans (trên nền đỏ trợt, có mảng trắng như sữa, có viền róc da vằn vèo ở ngoại vi).

Điều trị:

Rửa bằng nước thuốc tím 1/4000, chấm dung dịch yarish, nitrat bạc 0,25%. Bôi thuốc màu, hồ nước, không nên bôi thuốc mỡ lép nhép. Rắc bột talc boric 3% có tác dụng tốt.

Đông y: chấm nước lá thồm lồm( đuôi tôm).

Phòng bệnh:

Mùa hè đối với trẻ em cần năng tắm rửa, thay tã lót, rắc bột talc, phấn rôm vào các nếp kẽ.

Chốc mép (perlech)

Thường gặp ở trẻ em, đơn độc hoặc kèm theo các tổn thương khác do liên cầu:

Hai kẽ mép bị nứt trợt, rớm dịch, đóng vảy vàng dẽ chảy máu, đau rát, làm trẻ khó bú.

Thường kèm theo hạch đau dưới hàm.

Điều trị:

Chấm dung dịch yarish, Nitrat bạc 0,25% thuốc màu, mỡ kháng sinh neomyxin, mỡ biomyxin 3%, mỡ chlorocid 1% mỡ fucidin,mỡ bactroban.

Viêm quầng (erysipelas)

Căn nguyên bệnh sinh:

Là một bệnh nhiễm khuẩn da và dưới da với chủng Streptococcus. pyogenes tăng độc tố. Trước kia bệnh này hay gặp và tử vong cao ngay cả khi nằm viện. Hiện nay ở trẻ sơ sinh, người già hoặc các bệnh nhân có kèm các bệnh khác ... thì cũng nặng.

Vi khuẩn xâm nhập trực tiếp hoặc qua đường máu đặc biệt khi có các chấn thương ở các mô, sự mẫn cảm chung tăng lên, hoặc khi bệnh nhân thiểu dưỡng, nghiện rượu hoặc hạ  globulin bẩm sinh. Các tổn thương tại chỗ có xu hướng phù, viêm đường bạch mạch. Gần đây người ta nghĩ nhiều đến các khuyết tật của hệ thống lymphô có thể dẫn đên hay mắc bệnh Erysipelas.

Sự khu trú gọn , không rải rác có thể làm ta phân biệt được giữa Erysipelas và viêm mô tế bàodo liên cầu trùng.

Lâm sàng:

Thời gian ủ bệnh 2- 5 ngày, sau đó sốt cao đột ngột, một đôi khi co giật ở trẻ em kèm với đau đầu, sốt rét và nôn mửa . Da vùng sắp tổn thương cảm thấy căng và ngày thứ 2 thấy đỏ, phù, bóng. Đám viêm quầng mầu đỏ tươi kích thước vài cm đến hàng chục cm, hơi cao hơn mặt da, nề, cộm, ranh giới rõ, có bờ con trạch gồ cao. Đau tự nhiên hay bóp vào thì đau. ở các vùng tổ chức lỏng lẻo có khi tạo phù nề mạnh (mi mắt, sinh dục) hoặc ban đỏ có giới hạn rõ và có thể thấy mụn nước ở ria hoặc có khi là đám phù nề ,sưng nóng đỏ đau giới hạn rõ, ở giữa đám tổn thương là phỏng nước thậm chí loét hoại tử.

Không điều trị gì bệnh kéo dài từ 1 - 3 tuần rồi khỏi dần, đám đỏ da giảm dần, bề mặt có thể xuất hiện róc vẩy da nhất là ở các vùng có mụn nước hay phỏng nước trước đây.

Vị trí thông thường của tổn thương là bụng- trẻ sơ sinh. Mặt , da đầu, tai, ở trẻ lớn hơn. ở người lớn gặp ở chân 50 % trường hợp, 35 % ở mặt, 3 % ở tai, còn có thể thấy xúât hiện tổn thương sau một nhiễm trùng ngoài da như ( loét sâu quảng, loét ung thư, hoặc chấn thương do dị vật làm ảnh hưởng tới sự toàn vẹn của da ). Mức độ phù thay đổi tuỳ từng vùng. Bên cạnh tổn thương bị nhiễm sắc, sáng và bong vẩy.

Triệu chứng toàn thân thường nặng ở những người có sức đề kháng yếu. Toàn trạng sốt cao li bì, hạch lymphô khu trú sưng đau. Có thể thấy biến chứng viêm nội tâm mạc, khớp , màng não, bạch càu tăng cao công thức chuyển trái, albumin niệu.

Cân điều trị phối hợp với các biến chứng kèm theo như viêm cầu thận, áp xe dưới da, nhiễm trùng huyết. Nếu có biến chứng như vậy thì tỉ lệ tử vong 50 % ở trẻ em.

Bệnh có thể tái phát khi có sự giảm miễn dịch hoặc sự kéo dài của các yếu tố gây bệnh. Hệ lymphô bị phù nề, cơ thể mệt mỏi là dấu hiệu báo trước cho đợt cấp hay các đợt tái phát xuất hiện lại ở trên các vị trí cũ của bệnh.

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm tổ chức liên kết do liên cầu khuẩn trên cơ sở toàn trạng suy yếu hay có một yếu tố tại chỗ thuận lợi nào đó. Tổn thương là các đám đa cung đỏ, phù, sáng màu mà không có các triệu chứng toàn thân khác. Viêm tổ chức liên kết ở trẻ em gây đau đớn, tổn thương cứng đỏ, rồi dần dần dẫn đến tạo mủ, vỡ mủ thành lỗ dò.

Điều trị:

Cần phải điều trị kháng sinh mạnh ngay từ đầu thường dùngtiêm 1 đợt Lincomycin, Gentamycin, thậm chí dùng Rocephin. Các trường hợp tái phát, phù hệ thống lymphô mãn phải dùng liều nhỏ Penicyllin kéo dài hàng tháng thậm chí hàng năm hoặc lâu hơn nữa. Trong điều trị lưu ý nên phối hợp với điều trị triệu chứng giảm đau, an thần, sinh tố các loại.

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng nấm móng

Nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng, là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc thứ phát.

Bệnh tiêu thượng bị phỏng nước bẩm sinh

Các phỏng nước bao giờ cũng xuất hiện sau sang chấn và khu trú ở các vùng hở (lòng bàn tay: nắm chặt một vật gì, lòng bàn chân

Bài giảng ban đỏ nhiễm sắc cố định tái phát trên da

Cơ chế bệnh sinh của ban đỏ nhiễm sắc cố định thuốc đáp ứng miễn dịch dị ứng týp III và IV và được xem như là do mẫn cảm, tái phát khi bệnh nhân dùng lại thứ thuốc đã dùng.

Yếu tố nguy cơ và phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV, AIDS

Một số bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, nhiễm HIV AIDS thực chất là lây truyền trực tiếp qua đường máu, mà hoạt động tình dục chỉ là một cách để cho virus, vi khuẩn truyền từ máu người bệnh sang máu người lành.

Bài giảng phòng chống bệnh nấm

Người ta thấy ở những người bị nhiễm nấm da có khả năng kháng kiềm và khả năng trung hoà kiềm thấp hẳn so với những người bình thường.

Bài giảng bệnh nấm Blastomycosis

Soi trực tiếp :bệnh phẩm là dịch từ các u, hạch, dịch niêm mạc hay đờm soi trong KOH 20 phần trăm sẽ phát hiện thấy các tế bào nấm men, kích thước lớn.

Bài giảng bệnh Pemphigus

Bệnh tự miễn, có tự kháng thể IgG lưu hành trong máu chống lại bề mặt tế bào keratinoaftes, phá huỷ sự liên kết giữa các tế bào tạo lên phỏng nước trong lớp biểu bì.

Bài giảng bệnh Lyme do Borelia

Bệnh Lyme là một bệnh lây truyền từ động vật sang người (do ve đốt), tác nhân gây bệnh là do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi (B.b) .Bệnh gây thương tổn chủ yếu ở da, hệ thần kinh, tim và khớp.

Bài giảng rụng tóc (Alopecia)

Sự phát triển của tóc trên da đầu xảy ra theo một chu kỳ hoạt động không liên tục. Pha đầu tiên là pha phát triển (pha mọc tóc, pha hoạt động active phase) gọi là anagen có hoạt động gián phân mạnh.

Bài giảng bệnh lậu (Gonorrhoea)

Là một bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, tương đối phổ biến (chiếm 3-15% trong tổng số các bệnh lây truyền qua đường tình dục), căn nguyên do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae, triệu chứng lậu cấp điển hình là đái buốt, đái ra mủ.

Bài giảng các bệnh nấm da (dermatomycoses)

Trường hợp do loài nấm Trichophyton thì tổn thương thường đỏ, róc da ở gót chân, rìa bàn chân, các kẽ chân, và có khi có mụn nước sâu hoặc có tổn thương ở móng, móng sẽ mủn trắng vàng.

Bài giảng bệnh pemphigiod bọng nước (Bullous pemphigiod BP)

Thường bắt đầu bằng ban sẩn mề đay hoặc sẩn, ít hơn là viêm da, eczema đi trước bọng nước nhiều tuần hoặc nhiều tháng, sau đó mới nổi bọng nước lan tràn nhiều nơi.

Bài giảng vẩy phấn hồng Gibert (pityriasis rosea)

Có nhiều tác giả cho rằng bệnh do một vi khuẩn nhưng không được chứng minh và cả nấm, xoắn khuẩn cũng như vậy, còn lại là do vi rút, nó đáng được xem xét là khả năng nhất.

Bài giảng bệnh giang mai (Syphillis)

Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn, lây truyền chủ yếu qua đ­ường tình dục như­ng có thể lây qua đư­ờng máu, đ­ường mẹ sang con và đ­ường tiếp xúc trực tiếp với các thư­ơng tổn giang mai có loét.

Bài giảng viêm niệu đạo sinh dục do chlamydia trachomatis

Trừ bệnh hột soài có thể chẩn đoán dựa vào lâm sàng còn các viêm nhiễm đường sinh dục, niệu đạo mãn tính không phải do lậu rất khó chẩn đoán.

Sử dụng thuốc mỡ corticoid bôi ngoài da

Thành công hay thất bại trong điều trị phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn Corticoids bôi tại chỗ có độ mạnh phù hợp với tính chất bệnh lý, vùng da tổn thương.

Bài giảng mô học da trong da liễu

Trên các lát cắt mô học của da bình thường, ranh giới giữa thượng bì và trung bì không bằng phẳng mà lồi lõm do có nhiều nhú của thượng bì như những ngón tay ăn sâu vào trung bì.

Bài giảng chứng mặt đỏ (rosacea)

Bệnh kéo dài nhiều tháng, nhiều năm có thể kèm theo tăng sản tuyễn bã và phù bạch mạch làm biến dạng mũi, trán, quanh mắt, tai, cằm. Có khi bị cả ở vùng cổ, ngực, liên bả, lưng, da đầu.

Bệnh da nghề nghiệp (Occupational diseases)

Khu trú chủ yếu vùng hở, giới hạn rõ rệt chỉ ở vùng tiếp xúc không có ở vùng da khác. Có khi in rõ hình ảnh của vật tiếp xúc .Ví dụ: quai dép cao xu, ống nghe điện thoại.

Bài giảng ban mày đay và phù mạch (Urticaria and Angioedema)

Ban mày đay và phù mạch gồm các sẩn phù, mảng phù nhất thời thư­ờng ngứa và các vùng phù lớn của da và mô dư­ới da (phù mạch Angioedema), hay tái phát, cấp tính hay mạn tính.

Bài giảng nấm Cryptococcosis

Nấm thường gặp nhiều trong phân chim nhất là phân chim bồ câu do C neoformans có khả năng sử dụng creatinine ở trong phân chim làm nguồn nitrogen.

Bài giảng bệnh nấm Penicilliosis

Cũng như nấm lưỡng dạng có thể gây bệnh lưới nội mô hệ thống ở bệnh nhân HIV, nấm gây viêm da, tạo nên ở da nốt sẩn có nút sưng ở trung tâm giống như bệnh histoplasmosis.

Bài giảng ung thư tế bào gai (Epithélioma spino cellulaire)

Ung thư tế bào gai luôn luôn xuất hiện trên những thương tổn đã có từ trước, nhất là trên nhóm bệnh da tiền ung thư (Bowen, Paget), hiếm hơn là trên những vùng da có sẹo, viêm mạn hoặc dày sừng ở người già (kératose sénile).

Bài giảng bệnh nấm Mycetoma

Khi da chân bị xây sát nấm dễ xâm nhập gây nên tổn thương, Khoảng 70 phần trăm trường hợp bệnh ở chân, chân trái nhiều hơn chân phải.

Bài giảng bệnh vẩy nến (Psoriasis)

Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh (yếu tố khởi động, yếu tố môi trường) như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, rối loạn nội tiết, các thuốc.