- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Phản xạ tự chủ của tủy sống: hệ thần kinh tự chủ được tích hợp trong tủy sống
Phản xạ tự chủ của tủy sống: hệ thần kinh tự chủ được tích hợp trong tủy sống
Ở động vật có xương sống, đôi khi tủy sống có thể hoạt động quá mức, hoạt hóa mạnh phần lớn của tủy sống. Việc hoạt động quá mức này có thể gây ra do một kích thích đau mạnh mẽ lên da hoặc nội tạng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhiều đoạn của hệ thần kinh tự chủ được tích hợp trong tủy sống. Các phản xạ này bao gồm (1) thay đổi trương lực mạch máu theo nhiệt độ, (2) đổ mồ hôi do nóng khu trú trên bề mặt cơ thể, (3) các phản xạ vận động ở ruột, (4) phản xạ phúc mạc tạng ức chế nhu động ruột khi có kích thích vào phúc mạc, (5) phản xạ tiểu tiện hoặc đại tiện. Tất cả các phản xạ này đều có thể được kích thích đồng thời dưới dạng Phản xạ Mass.
Phản xạ mass
Ở động vật có xương sống, đôi khi tủy sống có thể hoạt động quá mức, hoạt hóa mạnh phần lớn của tủy sống. Việc hoạt động quá mức này có thể gây ra do một kích thích đau mạnh mẽ lên da hoặc nội tạng, ví dụ như sự giãn căng quá mức của bàng quang hoặc ruột. Hiện tượng này gây ra cái gọi là Phản xạ mass, liên quan đến phần lớn hoặc toàn bộ tủy sống. Hệ quả có thể là (1) co cứng phần lớn cơ vân của cơ thể, (2) đại tiểu tiện không tự chủ, (3) tăng huyết áp động mạch lên tối đa, đôi khi huyết áp tâm thu có thể lên đến hơn 200 mmHg, (4) đổ mồ hôi nhiều.
Bởi vì phản xạ khối có thể kéo dài đến vài phút, có thể giả thiết rằng có một lượng lớn các cung phản xạ lặp lại kích thích cùng một lúc tác động lên phần lớn tủy sống. Cơ chế ở đây cũng gần giống với cơ chế trong động kinh (ở động kinh thì lại bao gồm một lượng lớn các cung phản xạ lặp lại kích thích trên não thay vì ở tủy sống).
Đứt ngang tủy và choáng tủy
Khi tủy sống bị cắt ngang đột ngột ở tủy cổ cao, đầu tiên toàn bộ các chức năng tủy, bao gồm cả các phản xạ tủy sống ngay lập tức biến mất, phản ứng này gọi là choáng tủy. Nguyên nhân cho phản ứng này là do bình thường các neuron của tủy sống liên tục chịu sự chi phối rất lớn một bởi các trung tâm ở cao hơn, thông qua các bộ lưới tủy, tiền đình tuỷ, vỏ tủy...
Sau vài giờ hoặc vài tuần, các neuron ở tủy sống dần dần lấy lại khả năng hoạt động. Hiện tượng này dường như là tính chất tự nhiên của tất cả các neuron đó là, sau khi mất đi nguồn xung đột hoạt hóa, chúng tự nâng cao khả năng sự nhạy cảm với kích thích của chính mình để bù đắp lại một phần sự thiếu xót. Ở các loài động vật không linh trưởng, sự hồi phục này xảy ra chỉ sau vài giờ đến một ngày, nhưng ở người sự phục hồi nay thường phải sau vài tuần và thường không hồi phục hoàn toàn, ngược lại, đôi khi lại có thể hồi phục quá mức, gây ra sự nhạy cảm quá mức ở các chức năng của tủy.
Một vài chức năng tủy sống bị ảnh hưởng đặc biệt sau choáng tủy
Khi bắt đầu choáng tủy, huyết áp động mạch giảm nhanh và mạnh, đôi khi có thể dưới 40mmHg, chứng tỏ rằng hệ thần kinh giao cảm bị tổn thương. Huyết áp sau đó có thể trở lại bình thường sau vài ngày.
Tất cả các phản xạ cơ vẫn được tích hợp trong tủy sống đều bị mất trong giai đoạn đầu của choáng tủy. Ở các động vật bậc thấp, chỉ mất vài giờ hoặc vài ngày để khôi phục phản xạ này, tuy nhiên ở người có thể mất đến hàng tuần hoặc hàng tháng. Ở cả người và động vật, các phản xạ có thể trở nên nhạy cảm quá mức, thường là khi còn một vài đường liên hệ hoạt hóa từ não đến một phần tủy sống, phần còn lại thì bị đứt hoàn toàn. Phản xạ đầu tiên được khôi phục là phản xạ căng cơ, sau đó là các phản xạ phức tạp hơn như phản xạ gấp, phản xạ đứng dậy và các phản xạ bước.
Các phản xạ ở tủy cùng chi phối cho bàng quang và trực tràng ở người có thể bị mất trong vài tuần đầu, nhưng sau đó đa phần có thể hồi phục trở lại.
Bài viết cùng chuyên mục
Điều hòa tuần hoàn: vai trò hệ thống thần kinh tự chủ
Phần quan trọng nhất của hệ thần kinh tự chủ đều hòa tuần hoàn là hệ thần kinh giao cảm, hệ thần kinh phó giao cảm cũng đóng góp một phần khá quan trọng.
Tác dụng feedback của hormon giáp làm giảm bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên
Để đạt được mức độ bài tiết lý tưởng, cơ chế feedback cụ thể tác dụng thông qua tuyến dưới đồi và thùy trước tuyến yên để kiểm soát tốc độ bài tiết của tuyến giáp.
Glycogen được dự trữ tại gan và cơ trong cơ thể
Tất cả các tế bào đều có khả năng dự trữ glycogen, một số tế bào có khả năng dự trữ số lượng lớn hơn, tế bào gan dự trữ 5 đến 8% khối lượng dưới dạng glycogen, và tế bào cơ, có thể dự trữ 1 đến 3% glycogen.
Vỏ não thị giác: sáu lớp sơ cấp phân khu
Vỏ não thị giác được tổ chức cấu trúc thành hàng triệu cột dọc của tế bào thần kinh, mỗi cột có đường kính từ 30 đến 50 micromet. Tổ chức cột dọc tương tự cũng được tìm thấy trên khắp vỏ não chi phối các giác quan khác.
Sinh lý tiêu hóa ở ruột non
Khi bị tắc ruột, để đẩy nhũ trấp đi qua được chỗ tắc, nhu động tăng lên rất mạnh gây ra triệu chứng đau bụng từng cơn, và xuất hiện dấu hiệu rắn bò
Vấn đề nội tiết ở trẻ sơ sinh
Thông thường, hệ nội tiết của trẻ sơ sinh thường rất phát triển lúc sinh, và đứa trẻ hiếm khi biểu hiện ngay bất cứ bất thường miễn dịch nào. Tuy nhiên, nội tiết của trẻ sơ sinh quan trọng trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Sóng T trên điện tâm đồ: những bất thường khử cực
Khi thiếu máu xảy ra ở 1 phần của tim, quá trình khử cực của vùng đó giảm không tương xứng với khử cực ở các vùng khác. Hệ quả là sự thay đổi của sóng T.
Điều hòa bài tiết insulin
Kích thích tiết insulin bởi amino acid là quan trọng bởi vì insulin lần lượt tăng cường vận chuyển amino acid tới tế bào, cũng như sự hình thành protein trong tế bào..
Trao đổi chất qua thành mạch máu: cân bằng starling
Lượng dịch lọc ra bên ngoài từ các đầu mao động mạch của mao mạch gần bằng lượng dịch lọc trở lại lưu thông bằng cách hấp thu. Chênh lệch một lượng dịch rất nhỏ đó về tim bằng con đường bạch huyết.
Acid béo với alpha Glycerophosphate để tạo thành Triglycerides
Quá trình tổng hợp triglycerides, chỉ có khoảng 15% năng lượng ban đầu trong đường bị mất đi dưới dạng tạo nhiệt, còn lại 85% được chuyển sang dạng dự trữ triglycerides.
Đại cương thân nhiệt cơ thể người
Tất cả các phản ứng tế bào, sinh hoá và enzyme đều phụ thuộc nhiệt độ. Vì thế, sự điều hoà thân nhiệt tối ưu là cần thiết cho các hoạt động sinh lý ở động vật hằng nhiệt.
Chất dẫn truyền thần kinh: phân tử nhỏ tốc độ và tái chế
Trong hầu hết các trường hợp, các chất dẫn truyền thần kinh có phân tử nhỏ được tổng hợp tại bào tương của trạm trước synap và được vận chuyển tích cực vào túi chứa chất dẫn truyền.
Đại cương sinh lý tim mạch
Vòng tiểu tuần hoàn mang máu tĩnh mạch từ tim phải theo động mạch phổi lên phổi, ở mao mạch phổi, khí cacbonic được thải ra ngoài và máu nhận oxy để trở thành máu động mạch, theo tĩnh mạch phổi về tim trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình tương tự qua vòng đại tuần hoàn.
Nhồi máu cơ tim: các giai đoạn trong quá trình hồi phục
Khi vùng thiếu máu cục bộ lớn, một số các sợi cơ ở trung tâm khu vực chết nhanh chóng, trong vòng 1-3 giờ, nơi có ngừng cung cấp máu động mạch vành.
Chức năng của Mineralocorticoids Aldosterone
Aldosterol chiếm phần lớn hoạt tính mineralocorticoid của hormon vỏ thượng thận, nhưng corticoid là glucocorticoid chính được tiết ở vỏ thượng thận, cũng tham giá đáng kể vào hoạt tính của mineralocorticoid.
Loại dịch trong cơ thể người: đo bằng chỉ thị mầu
Dựa trên nguyên tắc bảo toàn vật chất, có nghĩa là tổng lượng vật chất sau khi hòa vào dịch bằng với tổng lượng vật chất trước khi được bơm vào.
Vai trò của vùng dưới đồi điều hòa nhiệt độ cơ thể
Nhiệt độ của cơ thể được điều chỉnh hầu như hoàn toàn bởi cơ chế điều khiển thần kinh, và hầu hết mọi cơ chế này tác dụng thông qua trung tâm điều hòa nhiệt nằm ở vùng dưới đồi.
Thần kinh giao cảm và phó giao cảm: điều chỉnh nhịp điệu và xung động co bóp
Sự gia tăng tính thấm với các ion canxi ít nhất là một nguyên nhân cho sự gia tăng sức co bóp của cơ tim dưới tác động của kích thích giao cảm, bởi vì các ion canxi kích thích quá trình co bóp của các tơ cơ.
Hoàn thiện của tinh trùng là thụ tinh với trứng
Có rất nhiều biến đổi xảy ra trong giai đoạn hoàn thiện tinh trùng mà nếu không có chúng, tinh trùng không thể xâm nhập vào bên trong trứng cà thực hiện quá trình thụ tinh.
Dịch ngoại bào: môi trường trong cơ thể
Dịch ngoại bào và máu luôn có quá trình trao đổi qua lại với nhau nhờ quá trình khuếch tán dịch và chất tan qua thành các mao mạch, dịch ngoại bào chứa các ion và các chất dinh dưỡng và là môi trường.
Các yếu tố điều chỉnh lượng thực phẩm ăn vào cơ thể
Sự điều chỉnh lượng thức ăn ăn vào có thể được chia thành điều chỉnh ngắn hạn, nó quan tâm chủ yếu tới việc hạn chế lượng thức ăn trong một bữa, và điều chỉnh dài hạn, kiểm soát chủ yếu là duy trì số lượng bình thường dự trữ năng lượng trong cơ thể.
Sự giải phóng năng lượng từ Glucose cho cơ thể theo con đường đường phân
Cách quan trọng nhất để giải phóng năng lượng từ glucose là khởi động con đường đường phân, sản phẩm cuối cùng sau đó được oxy hóa để cung cấp năng lượng.
Điện thế hoạt động của tế bào thần kinh
Để tạo ra những tín hiệu thần kinh, điện thế hoạt động di chuyển dọc theo tế bào sợi thần kinh cho tới điểm kếtthúc của nó.
Sự vận chuyển O2 trong máu và mô kẽ
Các loại khí có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách khuếch tán và nguyên nhân của sự vận chuyển này là sự chênh lệch về phân áp từ vị trí đầu tiên cho tới vị trí tiếp theo.
Các chuyển đạo trước tim (chuyển đạo ngực): các chuyển đạo điện tâm đồ
ECG của tim người khỏe mạnh như ghi lại từ sáu chuyển đạo ngực tiêu chuẩn. Vì các mặt của tim là gần với thành ngực, mỗi chuyển đạo ngực ghi lại chủ yếu là điện thế của hệ cơ tim ngay bên dưới điện cực.
