- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Chuyển hóa của thai nhi
Chuyển hóa của thai nhi
Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein, hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường. Những vẫn đề đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci, phosphate, sắt và một số vitamin.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thai chủ yếu sử dụng glucose để tạo năng lượng.
Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein lớn, hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường thay vì được hấp thu trực tiếp từ máu mẹ. Những vẫn đề đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci, phosphate, sắt và một số vitamin.
Chuyển hóa Calci và Phosphate
Hình biểu thị tỉ lệ calci và phosphate tích lũy trong bào thai, chứng minh rằng trung bình khoảng 22.5 gam calci và 13.5 gam phospho được tích lũy trong suốt thời kì bào thai. Khoảng một nửa số chúng tích lũy trong suốt 4 tuần cuối của kỳ thai nghén, chúng trùng khớp với giai đoạn hóa xương nhanh của xương và tăng cân nhanh của bào thai.
Trong giai đoạn đầu của bào thai, xương tương đối chưa hoàn thiện và chủ yếu ở dạng sụn. Thực tế, phim x quang thường không thấy bất kì sự hóa xương nào cho đến sau tháng thứ tư của kỳ thai nghén.
Đặc biệt lưu ý rằng toàn bộ lượng calci và phosphate cần thiết cho thai nhi trong suốt thời kì mang thai chỉ chiếm khoảng 2% lượng chất trong xương của mẹ, và do đó những chất này rời khỏi mẹ là rất nhỏ. Mất rất nhiều xảy ra sau khi sinh, trong thời kì cho con bú.

Hình. Dự trữ sắt, canxi và phốt pho ở thai nhi tại giai đoạn khác nhau của thai kỳ.
Tích lũy sắt
Hình cũng biểu thị rằng tích lũy sắt trong bào thai thậm chí nhanh hơn nhiều so với calci và phosphate. Phần lớn sắt ở dạng hemoglobin, chúng bắt đầu được hình thành từ rất sớm, từ tuần thứ 3 sau khi trứng được thụ tinh.
Lượng nhỏ sắt được tập trung trong nội mạc tử cung trước khi thụ thai; sắt được hấp thu vào phôi thai bởi các nguyên bào nuôi và được sử dụng để hình thành các tế bào hồng cầu rất sớm. Khoảng một phần ba sắt ở bào thai đã được phát triển hoàn toàn toàn thông thường được dự trữ ở gan. Lượng sắt này sau đó có thể được sử dụng cho một vài tháng sau khi sinh để hình thành thêm hemoglobin.
Sử dụng và tích lũy vitamin
Bào thai sử dụng vitamin nhiều như người trưởng thành và một số trường hợp có mức độ cao hơn.
Thông thường, chức năng những vitamin ở bào thai giống với người lớn. Tuy nhiên, chức năng đặc biệt của một vài vitamin nên được đề cập.
Vitamin B, đặc biệt là vitamin B12 và acid folic, cần thiết cho sự hình thành các hồng cầu và mô thần kinh, cũng như cho toàn bộ sự tăng trưởng của bào thai.
Vitamin C cần thiết cho sự hình thành phù hợp các chất gian bào, đặc biệt chất nền tủy xương và các sợi mô liên kết.
Vitamin D cần thiết cho sự phát triển xương của bào thai, nhưng cho dù nhiều quan trọng, mẹ cần nó để hấp thu đủ calci từ ống tiêu hóa. Nếu người mẹ nhiều vitamin D trong dịch cơ thể, lượng lớn vitamin sẽ được dự trữ bởi gan của thai để sử dụng cho một vài tháng sau khi sinh.
Cơ chế chức năng của vitamin E không hoàn toàn rõ rang, nhưng nó cần cho sự phát triển bình thường ở giai đoạn đầu của phôi. Thiếu nó trên những động vật thực nghiệm, sẩy thai tự phát thường xảy ra khi mang thai giai đoạn đầu.
Vitamin K được gan bào thai sử dụng để hình thành yếu tố VII, prothrombin, và một vài yếu tố đông máu. Khi vitamin K ở mẹ không đủ, yếu tố VII và prothrombin trở nên thiếu ở bào thai và mẹ. Bởi vì phần lớn vitamin K được hình thành bởi hoạt động của vi khuẩn ở ruột già người mẹ, trẻ sơ sinh không đủ nguồn vitamin K cho tuần đầu hoặc cuộc sống sau sinh cho đến khi hoạt động của hệ vi khuẩn đường ruột được hình thành bình thường. Do đó, dự trữ vitamin K ở gan bào thai một lượng nhỏ được nhận từ người mẹ rất hữu ích trong ngăn chảy máu thai, đặc biệt xuất huyết não khi đầu bị chấn thương khi đẩy qua đường sinh.
Bài viết cùng chuyên mục
Các dạng khác nhau của các tuyến tiêu hóa
Hầu hết sự tạo thành các enzym tiêu hóa đều là do việc đáp ứng lại với sự có mặt của thức ăn trong đường tiêu hóa, và lượng được bài tiết trong mỗi đoạn của đường tiêu hóa luôn luôn phù hợp với lượng thức ăn đó.
Tác dụng của corticoid lên chuyển hóa chất béo
Tăng huy động chất béo do cortisol giúp hệ thống chuyển hóa của tế bào sử dụng glucose từ sử dụng acid béo để sinh năng lượng trong khi đói hoăc các căng thẳng khác.
Hạ ô xy máu: bộ chuyển mạch HIFs đáp ứng cơ thể
Khi cơ thể được cung cấp đủ lượng oxy, những dưới - đơn vị của HIF khi hoạt động đòi hỏi hoạt hóa hàng loạt gen, sẽ bị điều hòa giảm và bất hoạt bằng những HIF hydroxylase.
Cấu trúc chức năng tế bào của Phospholipid và Cholesterol - Đặc biệt đối với màng
Phospholipids và cholesterol hình thành các yếu tố cấu trúc các tế bào là tốc độ đổi mới chậm của các chất trong hầu hết các mô ngoài mô gan được tính theo tháng hoặc theo năm.
Điểm nhiệt chuẩn trong điều nhiệt cơ thể
Điểm nhiệt chuẩn tới hạn của vùng dưới đồi, mà ở đó ở dưới mức run cơ và trên mức bắt đầu đổ mồ hôi, được xác định chủ yếu bởi hoạt động của receptor càm nhận nhiệt trong vùng trước thị-trước dưới đồi.
Điều chỉnh lượng thức ăn ăn vào và dự trữ năng lượng của cơ thể
Duy trì sự cung cấp năng lượng đầy đủ trong cơ thể quan trọng đến nỗi mà rất nhiều các cơ chế kiểm soát ngắn hạn và dài hạn tồn tại không chỉ điều chỉnh năng lượng hấp thu mà cả năng lượng tiêu thụ và năng lượng dự trữ.
Vận chuyển lipids trong dịch cơ thể
Cholesterol và phospholipid được hấp thụ từ hệ thống ruột vào trong chylomicron. Vì thế dù chylomicron được cấu tạo chủ yếu từ triglycerides, chúng còn chứa phospholipid, cholesterol và apoprotein B.
Cơ chế tự điều hòa bơm máu của tim: cơ chế frank starling
Tìm hiểu với các điều kiện khác nhau, lượng máu tim bơm đi mỗi phút thông thường được xác định hầu hết qua tốc độn dòng máu qua tim từ tĩnh mạch, đó là các tĩnh mạch trở về.
Tiêu hóa chất béo khi ăn
Bước đầu tiên trong tiêu hoá chất béo là phá vỡ tự nhiên các giọt mỡ thành kích thước nhỏ để những enzyme tiêu hoá tan trong nước có thể tác động lên bề mặt các giọt mỡ.
Sự phát triển của hệ cơ quan thai nhi
Sự phát triển các tế bào trên mỗi cơ quan thường chưa được hoàn thiện và cần 5 tháng mang thai còn lại để phát triển hoàn toàn. Ngay cả lúc sinh, những cấu trúc nhất định, đặc biệt là hệ thần kinh, thận và gan, thiếu sự phát triển hoàn toàn, như được mô tả sau.
Tiêu hóa hấp thu và chuyển hóa năng lượng của thức ăn và chất dinh dưỡng
Thông thường tỉ lệ chuyển hóa của trẻ sơ sinh so với trọng lượng cơ thể gấp đôi người lớn, chúng giải thích cho thực tế rằng hiệu suất của tim và thể tích hô hấp trong một phút gấp đôi người lớn so với trọng lượng cơ thể.
Tín hiệu thần kinh: sự hội tụ của các tín hiệu từ các sợi đến khác nhau
Sự hội tụ cho phép tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, và đáp ứng đưa đến là một hiệu quả được tổng hợp từ tất cả các loại thông tin khác nhau.
Phát triển của phôi trong tử cung
Khi sự cấy diễn ra, các tế bào lá nuôi phôi và các tế bào lá nuôi lân cận (từ túi phôi và từ nội mạc tử cung) sinh sản nhanh chóng, hình thành nhau thai và các màng khác nhau của thai kì, phôi nang.
Điện thế nhận cảm: sự chuyển đối kích thích cảm giác thành xung thần kinh
Khi điện thế nhận cảm tăng trên ngưỡng sẽ xuất hiện điện thế hoạt động trong sợi thần kinh gắn với receptor, từ đó, điện thế hoạt động sinh ra.
Tác dụng của Insulin lên chuyển hóa chất béo
Insulin có nhiều tác dụng dẫn đến dự trữ chất béo tại mô mỡ. Đầu tiên, insulin tăng sử dụng glucose ở hầu hết các mô, điều này tự động làm giảm sử dụng chất béo, do đó, chức năng này như là dự trữ chất béo.
Khả năng duy trì trương lực của mạch máu
Khả năng thay đổi trương lực của tĩnh mạch hệ thống thì gấp khoảng 24 lần so với động mạch tương ứng bởi vì do khả năng co giãn gấp 8 lần và thể tích gấp khoảng 3 lần.
Dịch lọc qua mao mạch: áp lực thủy tĩnh, áp lực keo huyết tương và hệ số lọc mao mạch
Áp lực thủy tĩnh có xu hướng để đẩy dịch và các chất hòa tan qua các lỗ mao mạch vào khoảng kẽ. Ngược lại, áp lực thẩm thấu có xu hướng gây ra thẩm thấu từ các khoảng kẽ vào máu.
Sự phát triển của điện thế hoạt động
Yếu tố nào đó làm tăng đôi chút điện thế màng từ -90mV hướng tới mức bằng không, điện thế tăng cao sẽ gây ra việc mở một số kênh natri có cổng điện thế.
Hệ thống Purkinje tâm thất của tim: dẫn truyền nhanh
Sự truyền tải nhanh điện thế hoạt động bởi các sợi Purkinje được cho là gây ra bởi một tính thấm rất cao của các khoảng trống tiếp giáp ở các đĩa xen kẽ giữa các tế bào kế tiếp cấu tạo nên các sợi Purkinje.
Thông khí thở: sự thích nghi của những người ở vùng cao
Cho dù những người ở đồng bằng có thể chuyển lên sống ở vùng cao trên 10 năm, nhưng vẫn không thể thích nghi tốt với độ cao băng những người bản xứ xét về mọi khía cạnh.
Vùng vận động sơ cấp: chức năng vận động của vỏ não và thân não
Vỏ não vận động được chia làm 3 vùng nhỏ, mỗi vùng lại có bản đồ hình chiếu riêng cho các nhóm cơ và có những chức năng riêng biệt: vùng vận động sơ cấp, vùng tiền vận động, vùng vận động bổ sung.
Vòng phản xạ thần kinh: sự ổn định và mất ổn định
Hầu như tất cả các phần của não kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp với tất cả các phần khác, nó tạo ra một thách thức nghiêm trọng. Nếu phần đầu tiên kích thích phần thứ hai, phần thứ hai kích thích phần thứ ba, phần thứ ba đến phần thứ tư và cứ như vậy.
Mãn kinh ở phụ nữ
Khi mãn kinh, cơ thể người phụ nữ phải điều chỉnh từ trạng thái sinh lý được kích thích bởi estrogen và progesterone sang trạng thái không còn các hormone này.
Vùng tiền vận động: chức năng vận động của vỏ não và thân não
Vùng tiền vận động nằm trước vùng vận động sơ cấp 1-3 cm. Nó trải dài từ rãnh bên (khe Sylvia) đến khe dọc giữa, nơi nó tiếp giáp với vùng vận động bổ sung (vùng có những chức năng giống với vùng tiền vận động).
Chức năng dự trữ máu của các tĩnh mạch
Các tĩnh mạch ngoại vi cũng có thể đẩy máu đi bằng cách cũng được gọi là “bơm tĩnh mạch” và chúng thậm chí cũng giúp điều hoà lượng máu ra từ tim.
