Loạn ngủ
Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Giấc ngủ bao gồm hai trạng thái riêng biệt được thể hiện rõ nét trên điện não đồ: ngủ cử động mắt nhanh (rapid eye morement - REM), còn gọi là giấc ngủ mơ, ngủ nghịch thường, ngủ trạng thái D và ngủ không cử động mắt nhanh (non-REM), còn được gọi là ngủ giai đoạn S và chia thành các giai đoạn 1, 2, 3, 4 và thể hiện rõ nét trên điện não đồ. Giai đoạn 3 và 4 là giấc ngủ “delta”. Mơ xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn ngủ REM, ít khi xuất hiện ở giấc ngủ NREM.
Giấc ngủ là một hiện tượng mạng tính chu kì. Có khoảng 4 hoặc 5 giấc ngủ REM trong một đêm, chiếm khoảng 1/4 giấc ngủ (1,5 - 2 giờ). Giai đoạn REM thứ nhất xuất hiện khoảng 80 - 120 phút sau khi bắt đầu ngủ và nó kéo dài chừng 10 phút. Những giai đoạn REM sau kéo dài hơn (15 - 40 phút) và chủ yếu xuất hiện ở những giờ cuối trước khi thức dậy. Hầu hết ngủ giai đoạn 4 (sâu nhất) là ở trong vài giờ đầu của thời gian ngủ.
Những thay đổi theo tuổi trong giấc ngủ bình thường gồm tỉ lệ không thay đổi giữa giấc ngủ REM và giảm đáng kể giai đoạn 3 và giai đoạn 4 của giấc ngủ cùng với việc gia tăng các giai đoạn thức giấc trong đêm. Sự thay đổi thông thường như vậy, đi ngủ sớm, ngủ ngày là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến phàn nàn ngày càng tăng ở những người già về hiện tượng mất ngủ. Những kiểu giấc ngủ khác nhau có thể, còn do hoàn cảnh (ví dụ, sự thay đổi múi giờ sau một chuyến bay) hoặc do kiểu người (ví dụ, kiểu “chim cú” quen đi ngủ muộn và dậy muộn. Điều này có thể do sự khác nhau về “nhịp sinh học”. Mất ngủ sẽ ảnh hưởng không tốt đến khả năng sáng tạo và phản ứng nhanh với tình huống mới lạ. Ít có những người lại không thích ứng được với chu kì ngủ - thức trong 24 giờ (rối loạn mất đồng bộ giấc ngủ), chu kì này có thể được tái đồng bộ khi thay đổi chế độ ánh sáng.
Những rối loạn này chủ yếu gặp ở trẻ em hơn là ở người lớn.
Phân loại và biểu hiện lâm sàng
Cơn khiếp sợ khi ngủ
Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ. Các hiệu chứng gồm có sợ hãi, vã mồ hôi, nhịp tim nhanh, lú lẫn trong vòng vài phút và kèm theo mất nhớ chuyện này.
Ác mộng
Ác mộng xuất hiện trong giấc ngủ REM; cơn khiếp sợ xuất hiện ở giai đoạn 3 và 4.
Miên hành
Miên hành (đi trong giấc ngủ) bao gồm: đi lại hoặc có các hành vi phức tạp khi đang ngủ, kèm theo mất nhớ sự kiện này. Triệu chứng này thường chỉ gặp ở trẻ em 6 - 12 tuổi, các pha xẩy ra ở giai đoạn 3 hoặc giai đoạn 4, trong phần ba đầu của giấc ngủ đêm và trong giấc ngủ REM vào những giờ cuối. Miên hành ở người nhiều tuổi có thể là dấu hiệu sa sút tâm thần. Các phản ứng đặc ứng với thuốc (ví dụ, cần sa, rượu) và các bệnh nội khoa (ví dụ, cơn động kinh cục bộ phức tạp) cũng có thể gây ra hiện tượng miên hành ở người lớn.
Đái dầm
Đái dầm là hiện tượng tiểu tiện không chủ ý khi ngủ ở những người thường có sự kiểm soát ý chí. Cũng giống như các hiện tượng loạn ngủ khác, đái dầm thường gặp ở trẻ em, thường vào khoảng 3 - 4 giờ sau khi ngủ song không giới hạn ở một pha ngủ đặc hiệu nào. Thường thấy lú lẫn và mất nhớ sự kiện này.
Điều trị
Có thể sử dụng nhóm benzodiazepin (ví dụ, diazepam, 5 - 20 mg lúc đi ngủ) để điều trị cơn khiếp sợ khi ngủ bởi thuốc có tác dụng ức chế giai đoạn 3 và giai đoạn 4 của giấc ngủ. Miên hành cũng đáp ứng với cách điều trị này cũng với lý do như vậy. Tuy nhiên không nên bỏ qua các biện pháp an toàn đơn giản. Có thể dùng Imipramin, 50 - 100 mg lúc đi ngủ để điều trị đái dầm; tuy nhiên Desmopressin (chế phẩm hormon chống lợi tiểu) dạng khí dung đường mũi đang được ưa dùng hơn. Liệu pháp hành vi (ví dụ, chuông reo khi nệm bị ướt) cũng có thể hiệu quả.
Bài viết cùng chuyên mục
Phụ thuộc các chất hỗn hợp và dung môi
Các kháng histamin trong một chừng mực nào đó gây sự ức chế hệ thần kinh trung ương do vậy nhiều khi nó được dùng như là một loại an dịu OTC. Trạng thái uể oải cũng thường thấy.
Phụ thuộc Caffein
Một điểm chung khác giữa caffein và các chất kích thích khác là chúng lại làm nặng thêm các triệu chứng của tâm thần phân liệt bù trừ và bệnh nhân hưng trầm cảm.
Các rối loạn lo âu và rối loạn phân ly
Rối loạn hoảng loạn được đặc trưng bằng những cơn lo âu trầm trọng ngắn, hồi phục tái phát, khó dự đoán, kèm theo những biến đổi sinh lý. Cũng có thể ám ảnh sợ khoảng trống.
Mất ngủ
Người bệnh có thể phàn nàn về việc khó vào giấc ngủ hoặc khó khăn trong việc duy trì giấc ngủ, có những khoảng thức giấc trong đêm hoặc thức dậy sớm hoặc kết hợp những hiện tượng đó.
Rối loạn tâm thần tình dục
Đặc điểm chính của kích thích tình dục, là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu, sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ tình dục khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này.
Đánh giá tâm thần trong rối loạn tâm thần
Phỏng vấn gia đình về ứng xử của người bệnh với những người khác cũng có thể cung cấp thông tin quan trọng cho chẩn đoán, thậm chí có thể làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
Chẩn đoán các rối loạn do dùng thuốc
Những người có rối loạn stress sau sang chấn thường tự điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau. Người sử dụng nhiều loại ma tuý khác nhau, kéo dài thường có hình ảnh teo não trên CT scan.
Stress và rối loạn thích ứng
Từng cá nhân có thể phản ứng lại với stress bằng trạng thái lo âu hoặc trầm cảm, phát hiện các triệu chứrig thực thể, chạy trốn hoặc uống rượu, bắt đầu các vụ áp phe hay một loạt các cách khác.
Những vấn đề tâm thần liên quan đến nằm viện và các rối loạn do dùng thuốc, phẫu thuật
Trong những trường hợp cực đoan, những vấn đề này có thể thúc đẩy bệnh nhân trốn viện, làm ngược lại chỉ dẫn về y tế.
Phụ thuộc và lạm dụng rượu (nghiện rượu)
Nghiện rượu là một hội chứng có hai pha: vấn đề ăn uống và phụ thuộc rượu. Vấn đề uống là việc sử dụng rượu lặp đi lặp lại, thường nhằm làm dịu lo âu.
Các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi
Hội chứng tâm thần phổ biến nhất ở người già là sa sút trí tuệ (hội chứng não thực thể) với các mức độ khác nhau.
Các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần
Trong hầu hết các trường hợp, điều trị tâm thần bao gồm cả sự tham gia tích cực của những người có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người bệnh.
Phụ thuộc thuốc Phencyclidin
Các triệu chứng thực thể gồm chóng mặt, thất điều, rối loạn ngôn ngữ, rung giật nhãn cầu, co rút mí mắt trên với nhìn chằm chằm vào chỗ trống.
Phụ thuộc các chất gây ảo giác (nghiện ma túy)
Điều trị pha cấp tính chủ yếu là giúp người bệnh tránh được những hành vi thất thường có thể dẫn đến chấn thương hoặc tử vong.
Các rối loạn đau dai dẳng
Thông thường những biến đổi giải phẫu là không hồi phục bởi lẽ nó phải chịu nhiều can thiệp với những hậu quả không mong muốn ngày càng gia tăng.
Tâm thần phân liệt và các rối loạn loạn thần khác
Các rối loạn tâm thần phân liệt là nhóm các hội chứng rối loạn tư duy, khí sắc và toàn bộ hành vi cũng như là kém chọn lọc kích thích.
Ngủ nhiều
Điều trị ngừng thở khi ngủ có thể gồm các biện pháp như giảm cân và điều hoà không khí qua mũi họng dưới áp lực liên tục trong thời gian ngủ.
Rối loạn khí sắc
Trầm cảm có thể xuất hiện với góc độ là một phản ứng đáp lại tác động gây stress nào đó hoặc một tình huống cuộc sống nặng nề, thường là sự mất mát của bản thân.
Các rối loạn tấn công: rối loạn tâm thần
Nhận biết được vấn đề này một phần là do sự nâng cao ý thức về quyền của phụ nữ và một phần là những người phụ nữ cũng hiểu rằng họ không được phép chấp nhận bị lạm dụng.
Phụ thuộc thuốc gây nghiện (opioid ma túy)
Để điều trị những trường hợp quá liều hoặc nghi quá liều có thể dùng naloxon 2 mg tiêm tĩnh mạch, nếu quá liều thì kết quả sẽ thể hiện rõ rệt trồng vòng 2 phút.
Phụ thuộc các chất kích thích amphetamin và cocain
Có một số người nghiện thuốc kích thích trở nên nhạy cảm với việc sử dụng các chất kích thích sau đó. Ở những người này, chỉ cần một lượng nhỏ chất kích thích nhẹ.
Các rối loạn dạng cơ thể
Dễ bị thương tổn ở một hoặc vài hệ thống cơ quan và tiếp xúc với những thành viên trong gia đình có các vấn đề dạng cơ thể sẽ đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển các triệu chứng.
Mê sảng, sa sút trí tuệ và các rối loạn nhận thức
Các rối loạn hành vi có xu hướng thường gặp ở những trường hợp dai dẳng, thường liên quan trực tiếp đến rối loạn nhân cách hoặc khả năng dễ bị tổn thương của hệ thần kinh trung ương
Rối loạn nhân cách
Rối loạn nhân cách được xem như là bảng ma trận của một số vấn đề tâm thần nặng nề. Ví dụ, dạng phân liệt, có liên quan đến phân liệt; dạng né tránh, có liên quan đến một số rối loạn lo âu.
Phụ thuộc cần sa
Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng lâu dài của thuốc cho thấy những bất thường trong cành cây phổi. Viêm họng, viêm mũi liên quan tới việc sử dụng cần sa kéo dài cùng với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.