Loạn ngủ

2016-01-19 10:05 PM

Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Giấc ngủ bao gồm hai trạng thái riêng biệt được thể hiện rõ nét trên điện não đồ: ngủ cử động mắt nhanh (rapid eye morement - REM), còn gọi là giấc ngủ mơ, ngủ nghịch thường, ngủ trạng thái D và ngủ không cử động mắt nhanh (non-REM), còn được gọi là ngủ giai đoạn S và chia thành các giai đoạn 1, 2, 3, 4 và thể hiện rõ nét trên điện não đồ. Giai đoạn 3 và 4 là giấc ngủ “delta”. Mơ xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn ngủ REM, ít khi xuất hiện ở giấc ngủ NREM.

Giấc ngủ là một hiện tượng mạng tính chu kì. Có khoảng 4 hoặc 5 giấc ngủ REM trong một đêm, chiếm khoảng 1/4 giấc ngủ (1,5 - 2 giờ). Giai đoạn REM thứ nhất xuất hiện khoảng 80 - 120 phút sau khi bắt đầu ngủ và nó kéo dài chừng 10 phút. Những giai đoạn REM sau kéo dài hơn (15 - 40 phút) và chủ yếu xuất hiện ở những giờ cuối trước khi thức dậy. Hầu hết ngủ giai đoạn 4 (sâu nhất) là ở trong vài giờ đầu của thời gian ngủ.

Những thay đổi theo tuổi trong giấc ngủ bình thường gồm tỉ lệ không thay đổi giữa giấc ngủ REM và giảm đáng kể giai đoạn 3 và giai đoạn 4 của giấc ngủ cùng với việc gia tăng các giai đoạn thức giấc trong đêm. Sự thay đổi thông thường như vậy, đi ngủ sớm, ngủ ngày là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến phàn nàn ngày càng tăng ở những người già về hiện tượng mất ngủ. Những kiểu giấc ngủ khác nhau có thể, còn do hoàn cảnh (ví dụ, sự thay đổi múi giờ sau một chuyến bay) hoặc do kiểu người (ví dụ, kiểu “chim cú” quen đi ngủ muộn và dậy muộn. Điều này có thể do sự khác nhau về “nhịp sinh học”. Mất ngủ sẽ ảnh hưởng không tốt đến khả năng sáng tạo và phản ứng nhanh với tình huống mới lạ. Ít có những người lại không thích ứng được với chu kì ngủ - thức trong 24 giờ (rối loạn mất đồng bộ giấc ngủ), chu kì này có thể được tái đồng bộ khi thay đổi chế độ ánh sáng.

Những rối loạn này chủ yếu gặp ở trẻ em hơn là ở người lớn.

Phân loại và biểu hiện lâm sàng

Cơn khiếp sợ khi ngủ

Cơn khiếp sợ khi ngủ là những kích thích đột ngột, kinh hoàng trong khi ngủ, thường gặp ở những cậu bé và cũng có thể ở người lớn. Nó hoàn toàn khác với cơn hoảng loạn khi ngủ. Các hiệu chứng gồm có sợ hãi, vã mồ hôi, nhịp tim nhanh, lú lẫn trong vòng vài phút và kèm theo mất nhớ chuyện này.

Ác mộng

Ác mộng xuất hiện trong giấc ngủ REM; cơn khiếp sợ xuất hiện ở giai đoạn 3 và 4.

Miên hành

Miên hành (đi trong giấc ngủ) bao gồm: đi lại hoặc có các hành vi phức tạp khi đang ngủ, kèm theo mất nhớ sự kiện này. Triệu chứng này thường chỉ gặp ở trẻ em 6 - 12 tuổi, các pha xẩy ra ở giai đoạn 3 hoặc giai đoạn 4, trong phần ba đầu của giấc ngủ đêm và trong giấc ngủ REM vào những giờ cuối. Miên hành ở người nhiều tuổi có thể là dấu hiệu sa sút tâm thần. Các phản ứng đặc ứng với thuốc (ví dụ, cần sa, rượu) và các bệnh nội khoa (ví dụ, cơn động kinh cục bộ phức tạp) cũng có thể gây ra hiện tượng miên hành ở người lớn.

Đái dầm

Đái dầm là hiện tượng tiểu tiện không chủ ý khi ngủ ở những người thường có sự kiểm soát ý chí. Cũng giống như các hiện tượng loạn ngủ khác, đái dầm thường gặp ở trẻ em, thường vào khoảng 3 - 4 giờ sau khi ngủ song không giới hạn ở một pha ngủ đặc hiệu nào. Thường thấy lú lẫn và mất nhớ sự kiện này.

Điều trị

Có thể sử dụng nhóm benzodiazepin (ví dụ, diazepam, 5 - 20 mg lúc đi ngủ) để điều trị cơn khiếp sợ khi ngủ bởi thuốc có tác dụng ức chế giai đoạn 3 và giai đoạn 4 của giấc ngủ. Miên hành cũng đáp ứng với cách điều trị này cũng với lý do như vậy. Tuy nhiên không nên bỏ qua các biện pháp an toàn đơn giản. Có thể dùng Imipramin, 50 - 100 mg lúc đi ngủ để điều trị đái dầm; tuy nhiên Desmopressin (chế phẩm hormon chống lợi tiểu) dạng khí dung đường mũi đang được ưa dùng hơn. Liệu pháp hành vi (ví dụ, chuông reo khi nệm bị ướt) cũng có thể hiệu quả.

Các danh mục

Chẩn đoán và điều trị y học tuổi già

Tiếp cận bệnh nhân dự phòng và các triệu chứng chung

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư

Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ

Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt

Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng

Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp

Chẩn đoán và điều trị bệnh tim

Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết

Chẩn đoán và điều trị bệnh máu

Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa

Chẩn đoán và điều trị bệnh tuyến vú

Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa

Chẩn đoán và điều trị sản khoa

Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng

Đánh giá trước phẫu thuật

Chăm sóc giai đoạn cuối đời

Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nước điện giải

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bị bệnh thận

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần

Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết

Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng

Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán

Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm