- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần
- Chẩn đoán các rối loạn do dùng thuốc
Chẩn đoán các rối loạn do dùng thuốc
Những người có rối loạn stress sau sang chấn thường tự điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau. Người sử dụng nhiều loại ma tuý khác nhau, kéo dài thường có hình ảnh teo não trên CT scan.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thuật ngữ “phụ thuộc thuốc” được dùng với nghĩa khá rộng, ở đây bao gồm cả nghiện và thói quen, Nó bao gồm ba thành tố của việc sử dụng thuốc cưỡng chế như là nghiện thuốc, gồm (1) phụ thuộc tâm lý hoặc thèm và những hành vi tìm kiếm thuốc; (2) phụ thuộc sinh lí, có các triệu chứng cai khi ngừng thuốc và (3) độ dung nạp, có nghĩa là có nhu cầu tăng liều để đạt được hiệu quả sảng khoái. Sự phụ thuộc thuốc còn tùy vào khối lượng thuốc và thời gian sử dụng thuốc. Lượng thuốc cần để tạo ra sự phụ thuộc cũng rất khác nhau, tùy theo loại thuốc và bản chất đặc trưng của người sử dụng. Tần suất sử dụng thường là hàng ngày, khoảng thời gian chịu đựng được có thể lớn hơn 2 - 3 tuần. Thường là dùng nhiều loại ma túy. Có một tỉ lệ lớn những người nghiện ma tuý đã từng điều trị cai nghiện (ví dụ, để tránh rắc rối về pháp luật hoặc có cơ hội tìm được nhiều thuốc hơn.
Đã có nhiều bằng chứng cho thấy ở nhiều người đã (hoặc đang) dùng ma tuý có hội chứng suy giảm. Người ta cho rằng ma tuý gây tổn thương các vị trí của thụ thể dẫn truyền thần kinh và hậu quả là sự mất cân bằng gây ra các triệu chứng giống với người bệnh tâm thần. “Khơi dậy” kích thích não lặp lại khiến cho người bệnh nhạy cảm hơn với hoạt hoá cục bộ ở não với một kích thích tối thiểu. Các thuốc kích thích và thuốc trầm cảm có thể tạo ra sự “khơi dậy” dẫn đến những tác động tự phát tương đối mà không phụ thuộc vào kích thích ban đầu. Những tác động này có thể được biểu hiện bằng sự thay đổi khí sắc, hoảng loạn, loạn thần và đôi khi còn có cơn co giật rõ nét. Sự mất cân bằng cũng gây ra tính kém hiệu suất của cá nhân: thường phải thày đổi nghề nghiệp, có những vấn đề về hôn nhân và nhìn chung là hành vi thất thường. Những người có rối loạn stress sau sang chấn thường tự điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau. Người sử dụng nhiều loại ma tuý khác nhau, kéo dài thường có hình ảnh teo não trên CT scan. Điều này có thể liên quan với những triệu chửng kể trên. Việc phát hiện sớm là rất quan trọng, chủ yếu là xác lập chương trình điều trị tập trung vào giải quyết các triệu chứng.
Thầy thuốc phải đối mặt với ba vấn đề của lạm dụng thuốc (chất); (1) chỉ định các thuốc như làm dịu, thuốc kích thích hoặc thuốc ngủ có thể gây phụ thuộc thuốc; (2) điều trị những cá nhân gần như là đã nghiện, thường nhất là nghiện rượu và (3) phát hiện những thuốc bất hợp pháp đã dùng ở bệnh nhân có các triệu chứng loạn thẩn. Việc sử dụng phân tích nước tiểu để phát hiện thuốc khác nhau rõ rệt với các thuốc khác nhau và dưới các hoàn cảnh khác nhau. Các loại thuốc tan trong nước (ví dụ như rượu, chất kích thích, các opioid) được thải trừ ngay trong ngày hoặc hơn một chút. Các loại ưa mỡ (ví dụ nhóm barbiturat, tetrahydrocannabinol) chỉ xuất hiện trong nước tiểu sau một khoảng thời gian dài, đa phần là vài ngày, với người nghiện cần sa kéo dài thì phải sau 1- 2 tháng. Việc xác định các thuốc làm dịu cũng rất khó tùy thuộc vào lượng thuốc và khoảng thời gian sử dụng. Dương tính giả cũng là một vấn đề có liên quan đến những thuốc được phép sử dụng (ví dụ, phenytoin nhầm với barbiturat; phenylpropanolamín nhầm với amphetamin; chloropromazin nhầm với opioid) và một số thực phẩm (ví dụ, hạt cây thuốc phiện nhầm với opioid, chè từ lá cây coca nhầm với cocain). Các thao tác cũng có thể làm thay đổi tính pháp lí của xét nghiệm. Pha loãng, in vivo hoặc in vitro, cũng có thể được xác định bằng cách kiểm tra tỉ trọng nước tiểu. Việc cho thêm amoniac, giấm hoặc muối cũng có thể vô hiệu hoá xét nghiệm, tuy nhiên xác định mùi vị và độ pH là một việc đơn giản. Phân tích mẫu tóc cồ thể xác định được việc dùng ma tuý trong thời gian dài. Độ nhạy và độ tin cậy của các test này được xem là rất tốt và có thể bổ xung cho xét nghiệm phân tích nước tiểu.