Bài giảng bệnh Pemphigus

2013-08-19 04:19 PM

Bệnh tự miễn, có tự kháng thể IgG lưu hành trong máu chống lại bề mặt tế bào keratinoaftes, phá huỷ sự liên kết giữa các tế bào tạo lên phỏng nước trong lớp biểu bì.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Định nghĩa

Pemphigus là bệnh da phỏng nặng, có thể gây chất người, tiến triển cấp hay mãn tính, là bệnh tự miễn, bọng nước lớp biểu bì ở da và niêm mạc gây nên hiện tượng ly gai (acantholyse).

Căn nguyên

Bệnh tự miễn, có tự kháng thể IgG lưu hành trong máu chống lại bề mặt tế bào keratinoaftes, phá huỷ sự liên kết giữa các tế bào tạo lên phỏng nước trong lớp biểu bì.

Có liên quan HLA - DR4, DQ8, DR6, DQ5.

Thường gặp tuổi 40 - 60.

Nam và nữ bị bệnhnhư nhau.

Tự kháng thể IgG bám chặt vào glycoprotein bề mặt tế bào biểu bì làm đứt các nối dẫn dến hiện tượng ly gai (acantholyse).

Thể lâm sàng

Pemphigus thể thông thường (P. vulgaris)

Thương tổn là một cái bọng nước trên nền da lành, đơn dạng. Nhưng da này rất dễ trợt ra. Dấu hiệu Nikolsky (+). Thường có chợt miệng nhất là ở vòm khẩu cái đi trước vài tuần, vài tháng do có phỏng nước ở đó dễ vỡ.

Bọng nước phỏng nước 1 vài cm đường kính, dễ vỡ, nhẽo.

Lâm sàng: bệnh hay sẩy ra một cách đột ngột ở một người khoẻ mạnh hay ở người có thể tạng suy sụp.

Chủ yếu là bọng nước: xuất hiện đầu tiên ở một chỗ nào đó trên da hay trên niêm mạc mồm,hầu họng. Bọng nước có thể nhỏ bằng hạt đạu xanh, quả táo, quả trứng gà , bọng nước và phỏng nước tính chất là nhẽo ( không căng), dễ vỡ, vỡ nước, phỏng nước mọc trên da lành, về sau chợt rộng dễ chảy máu, vẩy tiết.

Có trường hợp bọng nước xuất hiện to ngay.

Có trường hợp lúc đầu nhỏ sau to dần do hiện tượng ly gai.

Có thể bọng nước này liên kết 2 - 3 cái lại bằng một mảng lớn bọng nước có thể căng (giống Duhring) có thể nhẽo nhăn nheo. Trong chứa chất nước màu vàng chanh, có khi trở lên đục và có thể thành mủ thực sự.

Bọng nước này xuất hiện trên nền da bên ngoài trông bình thường không có nền đỏ ở dưới (Duhring bọng nước trên nền đỏ). Nếu bọng nước bội nhiễm thì vẫn có nền đỏ ở dưới.

Bọng nước xắp xếp lung tung trên da nhiều nhất ở các chi, qua nhiều đợt tiến triển bọng nước lan dần lên và lan ra cả người, bọng nước còn có thể xâm nhập vào quanh móng gây hiện tượng viêm quanh móng rất khó chẩn đoán.

Thường muốn chẩn đoán phải làm tế bào Tzanck.

Các bọng nước này hoặc khô đi hoặc ướt lên và lan ra cả người để tạo thành những vẩy tiết. Khi cậy vẩy tiết thấy đám trợt khỏi để lại vết thẫm màu. Còn vết loét có mủ khi trợt da để lại những vết loét nhiều khi trên một vùng có tính đa dạng bọng nước, vết trợt loét, vảy tiết vết loét.

Nhưng thực hcất là những giai đoạn tiến triển trên của bệnh mỗi bọng nước chỉ tồn tại 8 - 15 ngày . Sau vỡ ra thành vết trợt hay thành vẩy tiết. Những vết trợt của bọng nước lớn còn tồn tại hàng tháng khi khỏi không để lại sẹo. Trừ pemphigus hoại tử khi khỏi mới để lại sẹo.

Dấu hiệu Nikolsky (+): để ngón tay lướt mạnh trên da thấy da trợt theo tay do đứt các cầu nối giữa các tế bào gai. Dấu hiệu này có giá trị lớn nhưng chỉ dương tính trong các đợt cấp có khi còn gặp nó trong Duhring.

Tính chất cơ năng khác Dšhring : ở Dšhring có tiền triệu ngứa rát, nhưng khi đã phát bọng nước rồi thì bệnh nhân thấy đau rát. Có khi đau rát dữ dội nếu vết trợt lan rộng.

Tổn thương ở niêm mạc trong bệnh Pemphigus có thể gặp thường xuyên, niêm mach miệng bị tổn thương trước tiên.

Có khi bị tổn thương trước tiên ở môi,ở mặt trong má thấy những vết trợt không đều đặn, có khi thấy rất to màu đỏ tươi có thể trên đó có màng trắng như màng giả ở lợi để khi có vết trợt ở xung quanh chân răng niêm mạc ở vòm miệng rải rác có các vết trợt đứng riêng rẽ hay đứng tập trung.

Các niêm mạc khác như hầu, họng, mũi, sinh dục, màng tiếp hợp cũng có thể bị tổn thương. Các tổn thương ở niêm mạc này làm bệnh nhân cảm thấy rất đau đớn, ăn uống khó khăn.

Triệu chứng toàn thân: toàn trạng bệnh nhân bị ảnh hưởng rất sớm có thể lúc đầu chưa sốt ngay, về sau sốt dai dẳng có khi sốt cao thành từng đợt nhất là khi có nhiễm trùng.

Rối loạn tiêu hoá: xuất hiện ở thời kỳ cuối của bệnh, biếng ăn, nôn mửa, ỉa chảy, còn thấy có rối loạn về tâm thàn. Phù, có thể tổn thương thận.

Chức năng tuyến thượng thận: 17 setosteroid ở nước tiểu giảm, có tổn thương ở thượng thận phát hiện khi mổ tử thi.

Máu: bạch cầu tăng vừa phải.

Toàn trạng suy mòn có các tổn thương ở phủ tạng.

Thể dịch có rối loạn, nhất là chuyển hoá nước, đạm, muối.

Tiến triển thường xấu: tử vong từ 6 tháng đến 2 năm, tiến triển từng đợt, tình trạng có khá hơn một chút nhưng nó không trở lại bình thường.

Bệnh nhân chết do suy mòn dần và các biến chứng phối hợp như viêm phổi, viêm cuống phổi, urê huyết tăng.

Ở giai đoạn cuối cùng tổn thương ngoài da có đỡ đi nhưng tử vong do tổn thương ở phủ tạng, cũng có trường hợp tự khỏi ? Một số cho không phải hay là pemphigus lành tính hay mpột thể của Duhring.

Mô bệnh học: bọng nước nằm ở trong lớp thượng bì chủ yếu trong lớp malphighi. Tế bào gai xung quanh bọng nước bị đứt cầu nối chúng bị ngâm trong nước phình ra hình tròn nhân của nó to gọi đó là hiện tượng ly gai (acantholyse).

Có hiện tượng thâm nhiễm ở trung bì nhưng hiếm.

Về chẩn đoán tế bào Tzanck: là phương pháp chẩn đoán có giá trị cho phép chẩn đoán nhanh hơn sinh thiết. Cạo nền phỏng nước phết lên phiến kính soi kính hiển vi thấy tế bào gai đứt cầu nối liên gai gọi là chẩn đoán tế bào học Tzanck (+) tính.

Nếu tổn thương ở miệng rất có giá trị chẩn đoán lấy kéo cắt bọng nước, dùng ngòi bút chủng đậu cạo ở dưới đáy bọng nước phết lên lam kính đem nhuộm thường, soi thấy tế bào gai hình đa giác.

Nếu Duhring khi cạo đem soi không gặp tế bào gai mà gặp một số tế bào ở trung bì.

Tổn thương phủ tạng chỉ thấy được khi mổ tử thi.

Tổn thương ở nhiều phủ tạng gan, thận, lách, tim, hạch tuỷ xương, phổi và các tuyến nôi tiết nhất là tuyến thượng thận.

Căn sinh bệnh học: bệnh hay gặp ở người già yếu trên 40 tuổi xẩy ra đột ngột ở người khoẻ mạnh không lây lan, không có tính chất gia đình.

Xét nghiệm về mô bệnh học thấy có hiện tượng:

Phỏng nước trong biểu bì.

Hiện tượng ly gai (acantholyse) do đứt mất các thể nối giữa các tế bào biểu bì.

Hiện tượng thoái hoá một số tế bào thượng bì do men fermento proteclytique làm tan các cầu nối tế bào gai trên da bệnh nhân.

Thâm nhiễm bạch cầu ái toan.

Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp thấy IgG và C3 lắng đọng ở vùng tổn thương và da quanh tổn thương.

Máu: phát hiện tự kháng thể IgG. Tự kháng thể này chống lại glycoprotein 130 K da.

Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp da thấy có IgG và C3.

Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp phát hiện IgG trong huyết thanh bệnh nhân 75-90% nhất là trong giai đoạn hoạt tính của bệnh.

Về nguyên nhân hướng tìm do vi trùng chưa kết luận : một số thuyết hướng về siêu vi trùng lấy nước tiêm vào phổi gà cho ấp một số phổi gà chết một số dị dạng nhưng chưa được công nhận rõ ràng.

Có một thuyết tự nhiễm độc (autotoxique) được đa số công nhận. Một thuyết về yếu tố nội tiết chưa rõ ràng. Ngày nay đã chứng minh rõ đây là bệnh tự miễn, tự kháng nguyên là các thể nối (desmosome) ở các tế bào gai, tự kháng thể là IgG.

Chẩn đoán phân biệt:

Duhring có tiền triệu bào trước:

Đỏ rát, đau. Đa dạng rát đỏ, sẩn phù, bọng nước căng, bệnh vượng lên sau khi bôi hoặc uống Ioduakali.

Dị ứng đặc biệt với iodua:

Tetioder (+).

Ly thượng bì bọng nước (Epidermolysse bulleuse):

Là tật bẩm sinh gia đình bọng nước mọc trên một nền da bình thường nhưng sẩy ra ở vùng da tỳ đè. Thường trẻ sơ sinh đẻ ra là có , thường ở gót chân, quanh mồm, khoeo. Bọng nước tương đối sâu,nên khi trợt gây ra loét khỏi để lại sẹo teo da. Tiến triển lâu dài đến già không khỏi.

Bệnh chốc (Impetigo):

Chốc do liên cầu ,bọng nước mọc trên một nền da dưới viêm đỏ. Lúc đầu trong 1 - 2 giờ sau vỡ ra đóng lại vảy tiết. Nykolsky (-), thể tạng ít khi bị ảnh hưởng.

Hồng ban đa dạng thể bọng nước (erytheme polymorphe ):

Tổn thương cơ bản là một sẩn phù. Trên sẩn phù ở giữa có bọng nước to nhỏ tuỳ xung quanh màu đỏ tươi, bọng to nhỏ nhiều hay ít nước.

Nhìn ở giữa vòng xẫm màu xung quanh màu đỏ tươi gọi là hình huy hiệu tạo nhiều vòng hình đồng tâm.

Điều trị:

Tiên lượng rất xấu trước kia 100% tử vong, từ khi có corticoid tiên lượng có tốt hơn, giảm tỷ lệ tử vong còn 40%.

Thuốc có kết quả hơn cả là corticoid.

Corticoid liều đầu 300 - 500 mg/ ngày, sau đó giảm liều rất từ từ xuống và giảm dần xuống đến lúc nào không có tổn thương mới thì gọi là liều duy trì. Duy trì cho đến khi nào hết tổn thương ở trên da và niêm mạc.

Dùng kéo dài phải chú ý biến chứng loét dạ dày , hội chứng cushing trứng cá.

Hiện nay còn dùng methotrexat có nhiều tiến triển tốt, một tuần uống một lần 15 - 20 mg cho 15 ngày, đề phòng hạ BC, HC. Tổn thương của gan thận, có thể gây quái thai (cấm chửa đẻ sau 1 năm uống).

Pemphigus thể sùi (Pemphigus vegetant)

Tổn thương cơ bản là bọng nước.

Bệnh bắt đầu giống như ở pemphigus thông thương bằng các tổn thương ở niêm mạc miệng hay trên da nhưng hay khu trú vào các vị trí đặc biệt : ở nách, bẹn, kẽ mông, kẽ dưới vú, quanh rốn.

Bọng nước nhanh chóng vỡ ra có khi bệnh nhân không để ý và phát triển thành tổ chức sùi. trên có vảy và chảy nước. Tổn thương này có khi mùi hôi rất khó chịu, thường các tổn thương hay liên kết với nhau làm thành mảng lớn có khi nó chiếm hết cả mảng lưng, bụng, có khi cả xung quanh các móng... Mặc dù tổn thương sùi nhưng xung quanh vẫn còn hình ảnh của bong nước ở vùng rìa xem nhưn hoa caỉ nằm chen chít nhau hoặc một mảng da sùi cao 1 cm rộng 10 cm, mùi hôi thối, có thể suy đoán trước là bọng nước.

Sau một thời gian tiến triển hoặc do điều trị, những mảng sùi này khô đi và rắn lại rồi nó thấp dần xuống mất hẳn để lại một mảng da thẫm màu.

Dấu hiệu Nykolsky vẫn (+) quanh mảng sùi.

Tính chất cơ năng có ngứa, rát nhưng thất thường trừ tổn thương ở niêm mạc miệng rất đau.

Máu: Tế bào toan tính tăng cao (bạch cầu ái toan tăng).

Tiến triển bệnh: bệnh tiến triển vài tháng đến năm tthì tử vong vì suy mòn, vì biến chứng ở thận, tiêu hoá, hô hấp.

Mô bệnh học: bọng nước trong bệnh Pemphigus sùi giống bọng nước.

Pemphigus thông thường nằm trong lớp tế bào gai nhưng ở đây bọng nước chỉ xuất hiện rất sớm ở giai đoạn đầu . Về sau các tế bào gai bị tăng sinh và nó trở nên sùi lên. Cho nên ở giai đoạn sau không thấy có bọngnước mà chỉ thấy những tổn thương sùi phát triển ăn sâu xuống và phát triển bề mặt của thượng bì. Có một vài nơi có cấu tạo thành những áp xe nhỏ. Trong đó nhiều tế bào ái toan.

Ở trung bì có thâm nhiễm gồm nhiều tế bào ái toan về hình ảnh nó giống viêm da mủ thông thường hoặc giống viêm da đầu chi liên tục Hallopeau.

Về chẩn đoán tế bào Tzanck thấy nhiều tế bào hình tròn hoặc đa giác.

Về căn nguyên sinh bệnh học : là bệnh tự miễn. Pemphigus sùi chỉ là một thể của pemphigus thông thường do nó phát triển trên cơ thể đặc biệt trên nó sùi lên.

Chẩn đoán phân biệt:

Giang mai II sùi: sẩn cao hơn mặt da đôi khi sùi nhưng sẩn chắc (pemphigus sùi mà vẫn mềm ) ngoài sùi còn hội chứng khác: hạc, đào ban, rụng tóc, phản ứng huyết thanh bao giờ cũng (+), soắn trùng (+).

Lao sùi (tuberculose vericose): có sùi chân, đáy đỏ tím, có ít mủ khi bóp, châm kim đúng củ lao nó tụt xuống nhẹ nhàng.

Viêm da mủ sùi: tổn thương lúc đầu là bọng nước, mủ chốc, viêm da, mềm bóp ra có mủ, toàn tạng bình thường, phải dùng chẩn đoán tế bào Tzanck để phân biệt là chủ yếu.

Điều trị:

Dùng coticoide, dùng các loại kháng sinh hay dùng aureomycin 1 g/ ngày kéo dài hàng năm, tetracyline, hay dùng aureomycin kế hợp quinacrin.

Tại chỗ chống nhiễm trùng rửa dung dịch muối, thuốc tím và bôi các dung dịch màu, đốt các sùi bằng nitrat bạc 10% hoặc nạo, đốt điện, Laser CO2.

Pemphigus róc vảy (Pemphigus foliacé)

Tổn thương cơ bản vẫn là bọng nước. Bọng nước rất nhẽo nằm ở lợp thượng bì. Rất nông nên rất dễ vỡ để lộ ra vết trợt nông hoặc tạo thành vẩy lá. Trên một bọng nước mọc hết đợt này đợt khác, tạo vảy này chồng lên vảy kia ( Nikolsky (+)). Tổn thương lan ra toàn thân nhanh chóng dàn dần giống người đỏ da bong vảy toàn thân. Niêm mạc ít tổn thương nhưng hay gây rụng tóc, móng. Tiến triển lâu dài 2-3 năm hoặc lâu hơn nữa, có trường hợp bệnh giảm đi nhưng tạm thời. Toàn trạng bệnh nhân giữ được lâu dài hơn. Về sau bệnh nhân bắt đầu yếu dần, rồi suy mòn do các bệnh phối hợp như viêm phổi, HC giảm dần dần, BC ái toan tăng ít.

Giống Pemphigus thông thường có rối loạn chuyển hoá nước, muối, đạm.

Mô bệnh học: bọng nước hình thành giống như các loại Pemphigus khác nhưng khu trú thì nông hơn nhiều gần lớp hạt, chủ yếu là nắm dưới lớp sừng nên phần còn lại của lớp nhầy thì gần như bình thường. Trong vùng bị tổn thương thì hiện tượng ly gai rõ rệt và tế bào gai nổi lềnh bềnh ở trong huyết tương rồi nó trương lên , nó tách rời cái nọ khỏi cái kia. Đến giai đoạn đỏ da thì không thấy bọng nước hạc thấy rất ít nhưng vẫn thấy có hiện tượng ly gai. Trong trung bì nông có hiện tượng phù nhẹ , có thâm nhiễm do các tế bào viêm. Các tế bào toan tính , ái toan có nhiều trong thượng bì, trung bì , hình ảnh tổ chức học rất giống với đỏ da bong vảy thông thường.

Căn nguyên: giống như các Pemphigus khác, chưa rõ rệt, đa số xếp giống căn nguyên của Pemphigus thông thường.

Chẩn đoán khác:

Lúc đầu cần phân biệt với Pemphigus thông thường về sau bong vảy nhiều vảy nọ chồng lên vảy kia.

Duhring: nhiều khi Pemphigus vảy lá lúc đầu như bệnh Dšhring, sau mới có nhiều vảy lá.

Điều trị:

Tại chỗ: thuốc sát trùng.

Toàn thân: chủ yếu corticoid.

Thuốc sốt rét tổng hợp nivaquin, quinacrine trong đó có nhiều tế bào toan tính.

Ở trung bì có nhiều tế bào thâm nhiễm về hình ảnh nó giống viêm da mủ thông thường hoặc giống viêm đầu chi liên tục của Hallopeau. 

Pemphigus da mỡ (pemphigus séborheique)

Bắt đầu ở người lớn, đầu tiên là bọng nước hoặc các mảng đỏ bong vẩy giống trong viêm da mỡ: khu trú ở mặt và có khi có hình ảnh giống lupus đỏ. Cũng có khi bắt đầu là bọng nước to nhỏ không đều , không căng và đứng riêng rẽ. Khu trú đặc biệt ở vùng có nhiều tuyễn bã như ngực, lưng, vú.

Bọng nước: tính chất bọng nước nhỏ viền, không đều đặn , dễ vỡ ra thành vệt trợt. Có khi nhiều bọng nước kết hợp lại bằng một bọng nước lớn và cũng trợt bằng một mảng trợt.

Tổn thương thường là ban đỏ, vẩy da, vẩy tiết và đôI khi là bọng nước,ít gặp phỏng nước vì nó mỏng, dễ vỡ nên chỉ thấy đỏ chợt, vẩy.

Khu trú ở nhiều vùng có nhiều tuyến bã: lưng, vai, vùng xương cùng cánh mũi, nách, dưới vú, ở da đầu, còn các chi ít bị tổn thương hơn. Vảy ở đấy thường dày và bong thành từng miếng.

Có trường hợp vảy khô mỏng bong dễ dàng. Nếu tổn thương trên người đôi khi giống á sừng dạng vảy nến.

Dấu hiệu Nikolssky (+) ở giai đoạn sớm, sau có thể không thấy ở cạnh các bọng nước khô.

Mảng đỏ bong vảy: hay phối hợp với các bọng nước và tổn thương rất giống chàm khô. Khu trú rát đỏ này cũng ở rãnh mũi, má, ở cánh mũi, ở trán, ở vùng sau tai, da đầu.

Tiến triển: lâu dài, dai dẳng hơn và lành tính, có một số trường hợp có thể chuyển sang Pemphigus thông thường hay Pemphigus vảy lá.

Mô bệnh học: có hiện tượng ly gai. Bọng nước nằm nông ngay dưới lớp sừng, ở trung bì có thâm nhiêm. 

Điều trị: corticoid ở đây kém tác dụng hơn các thể Pemphigus khác. 

Kháng sinh có tác dụng nhất là aureomycin.

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng bệnh nấm Blastomyces

Nấm Blastomycess dermatitidiss, là một loài nấm lưỡng dạng. Theo Denton, Ajello và một số tác giả khác thì loài nấm này sống trong đất nhưng rất ít khi phân lập được nấm này từ đất.

Bài giảng bệnh nấm Blastomycosis

Soi trực tiếp :bệnh phẩm là dịch từ các u, hạch, dịch niêm mạc hay đờm soi trong KOH 20 phần trăm sẽ phát hiện thấy các tế bào nấm men, kích thước lớn.

Bài giảng nấm Candidas

Triệu chứng chủ yếu là ngứa. Da âm hộ đỏ và nhẵn. Trong kẽ mép có bợt da (macẻation) trên phủ một chất như kem màu trắng. Bên dưới là tổn thương đỏ tươi hoặc đỏ sẫm.

Bài giảng bệnh nấm Mycetoma

Khi da chân bị xây sát nấm dễ xâm nhập gây nên tổn thương, Khoảng 70 phần trăm trường hợp bệnh ở chân, chân trái nhiều hơn chân phải.

Bài giảng bệnh nấm Penicilliosis

Cũng như nấm lưỡng dạng có thể gây bệnh lưới nội mô hệ thống ở bệnh nhân HIV, nấm gây viêm da, tạo nên ở da nốt sẩn có nút sưng ở trung tâm giống như bệnh histoplasmosis.

Bài giảng bệnh nấm Sporotrichosis

Bệnh nhân thường gặp ở nam giới, khoẻ mạnh, dưới 30 tuổi, ít gặp ở trẻ em, hay gặp ở những người làm vườn, làm ruộng, thợ nề, trồng hoa hoặc bán hoa.

Bài giảng bệnh phong, hủi (leprosy)

Trực khuẩn hình gậy, kháng cồn, kháng toan về phương diện nhuộm, kích thước 1,5 đến 6 micron, nhuộm bắt màu đỏ tươi theo phương pháp Ziehl Neelsen.

Bài giảng da liễu Raynaud

Một hoặc nhiều ngón tay tự nhiên thấy trắng vàng, rắn, lạnh. Hiện tượng thiếu máu này lan dần lên gốc chi. Đặc biệt ngón cái ít bị ảnh hưởng

Bài giảng bệnh zona thần kinh, giời leo (herpes zoster)

Trước khi tổn thương mọc 2, 3 ngày thường có cảm giác báo hiệu như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân ít.

Bài giảng các bệnh nấm da (dermatomycoses)

Trường hợp do loài nấm Trichophyton thì tổn thương thường đỏ, róc da ở gót chân, rìa bàn chân, các kẽ chân, và có khi có mụn nước sâu hoặc có tổn thương ở móng, móng sẽ mủn trắng vàng.

Các phương pháp xét nghiệm nấm gây bệnh da liễu (Mycosis diagnosis)

Để làm tiêu bản xét nghiệm được trong, giữ tiêu bản được lâu dài phục vụ xét nghiệm và huấn luyện thì dung dịch KOH có thêm glycerin theo công thức sau hoặc dung dịch DMSO.

Sử dụng thuốc mỡ corticoid bôi ngoài da

Thành công hay thất bại trong điều trị phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn Corticoids bôi tại chỗ có độ mạnh phù hợp với tính chất bệnh lý, vùng da tổn thương.

Bài giảng chứng mặt đỏ (rosacea)

Bệnh kéo dài nhiều tháng, nhiều năm có thể kèm theo tăng sản tuyễn bã và phù bạch mạch làm biến dạng mũi, trán, quanh mắt, tai, cằm. Có khi bị cả ở vùng cổ, ngực, liên bả, lưng, da đầu.

Bài giảng hội chứng Lyell

Bệnh tiến triển cấp tính trong một vài giờ, đôi khi đột ngột xuất hiện sốt cao, rét run, đánh trống ngực, suy nhược cơ thể, nhức đầu, mất ngủ, đau miệng, ăn không ngon, đau và nhược cơ.

Bài giảng bệnh hạt cơm phẳng (verrus planes)

Hay nổi ở mặt, mu lưng bàn tay, có khi kết hợp với hạt cơm thường, Hay gặp ở trẻ em, thiếu nữ, phụ nữ trẻ. Có khi sau vài tháng, vài năm, tự nhiên khỏi không để lại vết tích.

Bài giảng bệnh hạt cơm khô (verrucae)

Bệnh phát triển trên một số thể địa đặc biệt khi có những điều kiện thuận lợi, hay tái phát thường có liên quan tới suy giảm tế bào T hỗ trợ do suy giảm miễn dịch tế bào.

Bài giảng hội chứng Steven Johnson

Trước đây hội chứng S J được xem là thể cấp tính của ban đỏ đa dạng, Tuy nhiên gần đây một số tác giả cho rằng nên xếp riêng vì bệnh có tính chất riêng biệt.

Thăm khám bệnh nhân da liễu

Khám từ ngọn chi đến gốc chi, từ vùng hở đến vùng kín hoặc khám lần lượt từ đầu đến chân để tránh bỏ sót thương tổn, sau đó khám kỹ các vùng tổn thương chính.

Bài giảng lưỡi lông (hairy tongue)

Lưỡi lông là một bệnh lý do các nhú biểu mô ở bề mặt lưỡi dài ra và dày lên, nó thường nhiễm sắc "màu đen" là do 1 loại vi khuẩn tạo sắc tố gây nên.

Bài giảng mô học da trong da liễu

Trên các lát cắt mô học của da bình thường, ranh giới giữa thượng bì và trung bì không bằng phẳng mà lồi lõm do có nhiều nhú của thượng bì như những ngón tay ăn sâu vào trung bì.

Bài giảng nấm Cryptococcosis

Nấm thường gặp nhiều trong phân chim nhất là phân chim bồ câu do C neoformans có khả năng sử dụng creatinine ở trong phân chim làm nguồn nitrogen.

Bài giảng bệnh nấm Aspergillosis

Phương thức gây bệnh của Aspergilluss là đầu tiên có thể gây bệnhở da sau đó tiến triển gây bệnh hệ thống hoặc ngược lại. Trong một số trường hợp nấm gây bệnh cơ hội có khi có điều kiện thuận lợi như ở người nhiễm HIV/AIDS.

Bài giảng bệnh nấm Actinomycosis

Bệnh ở da, niêm mạc khi niêm mạc hay da có vi chấn xây sát Actinomyces dễ lây nhiễm và phát triển gây bệnh, Mầm bệnh có thể qua thức ăn, ngũ cốc gây bệnh ở niêm mạc miệng.

Bài giảng bệnh mụn rộp (ecpet)

Là một bệnh ngoài da thư­ờng gặp, bệnh xuất hiện bất kỳ ở vị trí nào trên cơ thể, hay gặp nhất là quanh môi, lỗ mũi, má và vùng sinh dục, tầng sinh môn (nam giới thân d­ương vật, nữ giới môi bé), cá biệt thể hầu họng.

Bài giảng bệnh Lyme do Borelia

Bệnh Lyme là một bệnh lây truyền từ động vật sang người (do ve đốt), tác nhân gây bệnh là do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi (B.b) .Bệnh gây thương tổn chủ yếu ở da, hệ thần kinh, tim và khớp.

Bài giảng bệnh lao da

Đư¬ờng lymphô: trực khuẩn theo các khe gian bào và mạch lymphô đến trực tiếp vùng tổn thư¬ơng da, đường lan truyền này thường xẩy ra ở lao hạch.

Bài giảng bệnh ghẻ (scabies, gale)

Tác nhân gây bệnh do ký sinh trùng ghẻ Sarcoptes scabiei hominis, Bệnh do ghẻ cái gây nên là chủ yếu, ghẻ đực không gây bệnh vì chết sau khi giao hợp.

Bài giảng bệnh eczema (chàm)

Dù nguyên nhân nội giới hay ngoại giới cũng đều có liên quan đến phản ứng đặc biệt của cơ thể dẫn đến phản ứng dị ứng ,bệnh nhân có thể địa dị ứng.

Bài giảng bệnh Duhring Brocq

Bằng test miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, lắng đọng IgA thành hạt ở 85, 90% bệnh nhân và tạo thành đường ở bệnh nhân Duhring Brocq.

Bài giảng ban mày đay và phù mạch (Urticaria and Angioedema)

Ban mày đay và phù mạch gồm các sẩn phù, mảng phù nhất thời thư­ờng ngứa và các vùng phù lớn của da và mô dư­ới da (phù mạch Angioedema), hay tái phát, cấp tính hay mạn tính.

Bài giảng phòng chống bệnh nấm

Người ta thấy ở những người bị nhiễm nấm da có khả năng kháng kiềm và khả năng trung hoà kiềm thấp hẳn so với những người bình thường.

Sẩn ngứa do côn trùng cắn hoặc chích

Ngay sau khi bị đốt sẩn tịt giống nốt muồĩ đốt đường kính 2, 3 mm hoặc 1, 2 cm cao trên mặt da, đỏ ngứa nhiều, giữa có điểm rớm dịch trong, đầu khô đóng vảy mầu nâu.

Thuốc bôi ngoài da bệnh da liễu

Thuốc bôi ngoài da còn có tác dụng toàn thân, gây nên những biến đổi sinh học nhất định, do thuốc ngấm vào dịch lâm ba, vào máu.

Thuốc điều trị bệnh nấm da liễu

Có khoảng 200 thuóc thuộc nhóm này, chúng có 4 - 7 liên kết đôi, một vòng cyclic nội phân tử và có cùng một cơ chế tác dụng. Không thuốc nào có độ khả dụng sinh học ( bioavaiability) phù hợp khi dùng thuố uống.

Tổn thương cơ bản bệnh da liễu (fundamental lesions)

Nguyên nhân gây ra dát viêm, ban đỏ (erythema) rất khác nhau, ví dụ ban đỏ trong dị ứng thuốc, đào ban (roseole) trong giang mai II cũng là một loại dát viêm.

Bài giảng bệnh trứng cá (Acne)

Tuyến bã có ở hầu khắp các vùng da của cơ thể trừ lòng bàn tay, lòng bàn chân, mặt mu ngón chân và môi dưới, tuyến bã thường tập trung nhiều ở vùng mặt, ngực, lưng, phần trên cánh tay.

Bài giảng vật lý trị liệu bệnh da liễu

Siêu âm là các dao động âm thanh, dao động đàn hồi của vật chất. Tác dụng của siêu âm lên cơ thể gây giãn mao mạch làm tăng tuần hoàn tại chỗ, giảm triệu chứng co thắt, tăng dinh dưỡng.

Bài giảng vẩy nến mụn mủ lòng bàn tay chân

Đa số tổn thương nhanh chóng thành đối xứng hai bên, thường bị lòng bàn tay, bàn chân kế tiếp nhau hoặc có khi chỉ có ở bàn tay hoặc bàn chân.

Bài giảng vẩy nến mụn mủ toàn thân

Vài ngày sau mụn mủ vỡ tổn thương hơi trợt chảy dịch mủ rồi đóng vẩy tiết, chuyển sang giai đoạn róc vẩy, róc vẩy khô trên nền da đỏ, vẩy lá dày hoặc mỏng ở thân mình, chi, ở mặt nếu có thương tổn thường róc vẩy phấn.

Bài giảng bệnh vẩy nến (Psoriasis)

Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh (yếu tố khởi động, yếu tố môi trường) như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, rối loạn nội tiết, các thuốc.

Bài giảng vẩy phấn hồng Gibert (pityriasis rosea)

Có nhiều tác giả cho rằng bệnh do một vi khuẩn nhưng không được chứng minh và cả nấm, xoắn khuẩn cũng như vậy, còn lại là do vi rút, nó đáng được xem xét là khả năng nhất.

Bài giảng viêm da mủ (Pyodermites)

Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, vệ sinh kém, ngứa gãi, sây xát da.…tạp khuẩn trên da tăng sinh, tăng độc tố gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ. 

Bài giảng viêm da thần kinh (Nevrodermite)

Dần dần vùng da ngứa bị gãi nhiều trở thành đỏ sẩn hơi nhăn, hơi cộm, nổi những sẩn dẹt bóng, sau thành một đám, có xu hướng hình bầu dục, đôi khi thành vệt dài có viền không đều, không rõ.

Bài giảng viêm da cơ (Dermatomyosite)

Thường bắt đầu triệu chứng của toàn thân bằng sốt,sổ mũi thường xảy ra sau nhiễm trùng tại chỗ hoặc ở nữ giới sau khi đẻ bắt đầu bằng triệu chứng.

Viêm da phỏng nước do kiến khoang (Paedérus)

Vị trí tổn thương chủ yếu ở phần hở, mặt, cổ hai cẳng tay, 1/2 trên thân mình. Nhưng cũng có trường hợp thấy cả ở vùng kín như nách, quanh thắt lưng, bẹn, đùi.

Bài giảng da liễu xơ cứng bì (Sclrodermie)

Bốn týp khác nhau ở thành phần axít.amin của nó. 1/3 protein của cơ thể ngư¬ời là có collagene , xương và da chứa nhiều collagene nhất.

Bệnh da nghề nghiệp (Occupational diseases)

Khu trú chủ yếu vùng hở, giới hạn rõ rệt chỉ ở vùng tiếp xúc không có ở vùng da khác. Có khi in rõ hình ảnh của vật tiếp xúc .Ví dụ: quai dép cao xu, ống nghe điện thoại.

Bài giảng ban đỏ nhiễm sắc cố định tái phát trên da

Cơ chế bệnh sinh của ban đỏ nhiễm sắc cố định thuốc đáp ứng miễn dịch dị ứng týp III và IV và được xem như là do mẫn cảm, tái phát khi bệnh nhân dùng lại thứ thuốc đã dùng.

Bài giảng ấu trùng sán lợn dưới da (Systicercose sous cutanée)

Trên cơ sở dựa vào bệnh sán dây lợn ở đường ruột (xét nghiệm phân để tìm đốt sán và trứng sán), có biểu hiện lâm sàng u nang sán ở dưới da.

Bài giảng bệnh than da liễu (anthrax)

Người mắc bệnh trong các trường hợp qua vết xây xát ở ngoài da do tiếp xúc với các chất thải của động vật ốm hoặc khi làm thịt các động vật chết vì bệnh than.

Bài giảng chẩn đoán tổ đỉa

Do ngứa chọc gãi làm xuất hiện mụn mủ, vết chợt, bàn tay chân có khó sưng táy nhiễm khuẩn thứ phát, hạch nách, bẹn sưng (tổ đỉa nhiễm khuẩn).

Bài giảng nấm móng

Nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng, là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc thứ phát.

Chẩn đoán nấm lang ben

Dát trắng (có khi dát hồng hoặc hơi nâu, thẫm màu) như bèo tấm hình tròn vài mm đường kính, khu trú lỗ chân lông dần dần liên kết với nhau thành màng lớn, hình vằn vèo như bản đồ, 10 - 20 - 30 cm đường kính.

Bệnh tiêu thượng bị phỏng nước bẩm sinh

Các phỏng nước bao giờ cũng xuất hiện sau sang chấn và khu trú ở các vùng hở (lòng bàn tay: nắm chặt một vật gì, lòng bàn chân

Bài giảng bệnh pemphigiod bọng nước (Bullous pemphigiod BP)

Thường bắt đầu bằng ban sẩn mề đay hoặc sẩn, ít hơn là viêm da, eczema đi trước bọng nước nhiều tuần hoặc nhiều tháng, sau đó mới nổi bọng nước lan tràn nhiều nơi.

Bài giảng bệnh Paget da liễu

Lúc đầu tổn thương là một vài vảy tiết nhỏ hoặc tổ chức sùi sừng hoá ở quanh vú. Vảy tiết gắn chặt khô hoặc hơi ướt, ngứa ít hoặc nhiều, bóc lớp này lớp khác lại đùn lên.

Bài giảng bệnh Bowen

Chẩn đoán quyết định: dựa vào lâm sàng và mô bệnh học ( các tế bào gai có nhân hình quả dâu, có không bào gọi là tế bào Bowen hoặc tế bào loạn sừng Darier).

Bài giảng ung thư tế bào đáy (Epithélioma basocellulaire basalioma)

Bệnh gặp ở bất kỳ chỗ nào trên cơ thể, nhưng thường thấy nhất ở vùng đầu, mặt khoảng 80- 89,3%, đôi khi có ở cổ 5,2 %, ở thân mình 3,6%, bộ phận sinh dục 1 %. Khi khu trú ở mặt, thường ở vùng mũi 20-23%, ở má 16 - 29%.

Bài giảng ung thư tế bào gai (Epithélioma spino cellulaire)

Ung thư tế bào gai luôn luôn xuất hiện trên những thương tổn đã có từ trước, nhất là trên nhóm bệnh da tiền ung thư (Bowen, Paget), hiếm hơn là trên những vùng da có sẹo, viêm mạn hoặc dày sừng ở người già (kératose sénile).

Bài giảng rụng tóc (Alopecia)

Sự phát triển của tóc trên da đầu xảy ra theo một chu kỳ hoạt động không liên tục. Pha đầu tiên là pha phát triển (pha mọc tóc, pha hoạt động active phase) gọi là anagen có hoạt động gián phân mạnh.

Bài giảng bạch biến (vitiligo)

Tổn thương cơ bản là các dát trắng, kích thước khoảng vài mm sau đó to dần ra (có thể từ từ hoặc rất nhanh), có giới hạn rõ, khuynh hướng phát triển ra ngoại vi và liên kết với nhau.

Bài giảng xạm da (Melanodermies)

Xạm da lan toả toàn thân thường là hậu quả của một số bệnh nhiễm khuẩn, rối loạn chuyển hoá thuộc phạm vi bệnh học chung.

Yếu tố nguy cơ và phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV, AIDS

Một số bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, nhiễm HIV AIDS thực chất là lây truyền trực tiếp qua đường máu, mà hoạt động tình dục chỉ là một cách để cho virus, vi khuẩn truyền từ máu người bệnh sang máu người lành.

Bài giảng viêm loét niêm mạc miệng lưỡi

Tổn thương ở niêm mạc miệng, đôi khi ở lưỡi, có rất nhiều nguyên nhân như: răng sâu, viêm quanh răng, viêm tủy răng; do những sang chấn từ bên ngoài; do nhiễm vi khuẩn, nhiễm siêu vi; nhiễm nấm; do dị ứng thuốc; do bệnh lý tự miễn; ung thư biểu mô.

Bài giảng xùi mào gà (Condyloma acuminata)

Tác nhân gây bệnh là HPV, thuộc loại papova virus có DNA. Th­ường là các típ 6 và típ 11. Đôi khi có thể gặp típ 16, 18, 31 và 33. Ngư­ời ta tìm thấy HPV trong các nhân của các tế bào biểu mô bị nhiễm và cho rằng típ 16, 18, 31 và 33 có liên quan tới loạn sản và ung thư­ sinh dục.

Bài giảng điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Bệnh nhân đ¬ược điều trị cùng một lúc tất cả các tác nhân gây bệnh mà gây nên hội chứng mà bệnh nhân có.

Bài giảng bệnh Celiac

Không có triệu chứng hay dấu hiệu đặc biệt nào cho bệnh celiac; hầu hết người bệnh bị tiêu chảy, đau bụng, đầy hơi và xuống cân. Đôi khi họ không có triệu chứng rõ rệt nào.

Bài giảng bệnh giang mai (Syphillis)

Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn, lây truyền chủ yếu qua đ­ường tình dục như­ng có thể lây qua đư­ờng máu, đ­ường mẹ sang con và đ­ường tiếp xúc trực tiếp với các thư­ơng tổn giang mai có loét.

Bài giảng viêm niệu đạo sinh dục do chlamydia trachomatis

Trừ bệnh hột soài có thể chẩn đoán dựa vào lâm sàng còn các viêm nhiễm đường sinh dục, niệu đạo mãn tính không phải do lậu rất khó chẩn đoán.

Bài giảng bệnh lậu (Gonorrhoea)

Là một bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, tương đối phổ biến (chiếm 3-15% trong tổng số các bệnh lây truyền qua đường tình dục), căn nguyên do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae, triệu chứng lậu cấp điển hình là đái buốt, đái ra mủ.

Bài giảng các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Khá nhiều bệnh nhân không biết mình có bệnh để đi chữa trị, đặc biệt đối với các trường hợp bệnh không có triệu chứng rầm rộ, cấp tính. Ví dụ: bệnh lậu ở nữ giới.