Viêm khớp phong thấp tính (viêm khớp dạng thấp tiến triển)

2013-07-14 02:49 PM

Bản chất bệnh là phản ứng tự kháng nguyên - kháng thể, yếu tố thấp là một IgM; yếu tố thấp chiếm đa số ổ 80% các trường hợp, còn kháng thể kháng nhân chiếm 20%.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Viêm khớp loại phong thấp là 1 loại bệnh mãn tính, tự miễn dịch nguyên nhân chưa rõ. Tỷ lệ phát bệnh từ 1 - 3%, nữ nhiều hơn nam theo tỷ lệ 3/1, bệnh có thể phát ở mọi lứa tuổi, hay gặp hơn ở tuổi 20 – 40; bệnh tiến triển kéo dài mãn tính. Về nguyên nhân bệnh lý, cho đến nay vẫn chưa rõ, thường thấy bệnh khởi phát sau viêm nhiễm, phẫu thuật, chấn thương và sau đẻ. Đa số các ý kiến cho rằng, bản chất bệnh là do phức hợp tính hoặc lưỡng tương tính, nhân - quả của viêm nhiễm hoặc là sự rối loạn chuyển hoá trong tổ chức liên kết làm cho màng xương - khớp biến tính sản sinh kháng nguyên (không phải trở thành kháng nguyên).

Lâm sàng: khớp có biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau, thường ở khớp nhỏ nhưng không làm mủ, đối xứng, ngày càng lan rộng và nặng dần; tiến tới không cử động được và biến dạng khớp, toàn thân có thể có sốt.

Điện quang: khe khớp hẹp, lỗ chỗ đầu xương.

Bản chất bệnh là phản ứng tự kháng nguyên - kháng thể, yếu tố thấp là một IgM; yếu tố thấp chiếm đa số ổ 80% các trường hợp, còn kháng thể kháng nhân chiếm 20%, có nhiều tế bào hạt nhỏ (do bạch cầu ăn các phức hợp kháng nguyên - kháng thể vào trong nguyên sinh chất); dịch khớp có nhiều tế bào hạt nhỏ, không có đám tích tụ dạng tơ như trong luput; thường hình thành những u hạt dưới da quanh các mạch máu, có khi có trong cơ tim. Bổ thể trong máu thì bình thường, nhưng trong dịch khớp thì giảm xuống 1/3. Ngoài ra có thể có nguyên nhân di truyền vì liên quan đến HLA - DR4. Nhưng gần đây, các tác giả cho là miễn dịch lympho dịch khớp sinh ra IgG biến dị (tự kháng nguyên) kích thích sản xuất kháng thể chống lại (yếu tố thấp). Phản ứng viêm hình thành do lắng đọng phức hợp miễn dịch, hoạt hóa bổ thể, các tế bào hạt nhỏ sản xuất các enzym collagenaza, elastinaza phá hủy bao khớp. Lympho T ức chế bị sa sút, lympho B được hoạt hoá sản xuất kháng thể nhiều là biểu hiện của rối loạn điều hòa miễn dịch.

Chẩn đoán

Theo Hội Thấp khớp Mỹ 1995

Cứng khớp buổi sáng.

Vận động đau ít nhất 1 khớp.

Sưng khớp ít nhất 1 khớp.

Sưng sang khớp khác (trong 3 tháng).

Sưng khớp bàn - ngón đối xứng (6 tuần).

Có hạt dưới da (bằng hạt ngô, cứng, đau, di động quanh khớp).

Thay đổi tổ chức học, đặc biệt trong hạt thấp.

Hình ảnh điện quang rõ.

Phản ứng ngưng kết hồng cầu dương tính.

Vi thể màng khớp thấy nhung mao to.

Dịch khớp rất ít mucin.

Chỉ cần có 5 trong 11 tiêu chuẩn trên là chẩn đoán dương tính.

Theo Y học Cổ truyền

Y học cổ truyền thường mô tả viêm đa khớp dạng thấp trong phạm trù “ Tý chứng”.

Biện chứng phương trị:

Quá trình bệnh lý kéo dài ngoan cố. Bệnh thời kỳ đầu lấy công tà là chủ; thời kỳ giữa đa phần chính khí hư dần, tà khí sẽ thịnh nên phải kiêm trị phù chính - trừ tà; thời kỳ cuối, bệnh phát lâu ngày nêú 3 tạng (can, thận, tỳ) đại hư; tà khí suy dần nên lấy phù chính là chủ (bổ ích can tỳ thận).

Phong hàn thấp tý:

Thời kỳ đầu thường đau từ 1 khớp đến nhiều khớp, đau cục bộ, không sốt, không đỏ, chỉ gặp lạnh thì đau tăng, gặp nóng thì đau giảm; thường biến đổi theo thời tiết (thiên khí biến hóa) mà đau nặng hay nhẹ. Lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng; mạch trầm huyền hoặc trầm khẩn.

Pháp điều trị: trừ phong trục thấp - ôn kinh tán hàn.

Phương thuốc: “ôn kinh quyên tý thang”.

Đương qui 20g Dâm dương hoắc 15g.

Quế chi 15g Cam thảo 5g.

Khương bán hạ 15g Ô tiêu xà 10g.

Chế xuyên ô 10g Địa miết trùng 10g.

Phong lịch 10g Lộc hành thảo 10g.

Nếu đau di chuyển bất định là hành tý, phải thì gia thêm: thảo cốt phong, khương hoạt, độc hoạt.

Nếu khớp chi thể nặng, phù thũng là trước tý nặng thì phải gia thêm: thương truật, sinh ý dĩ nhân, sao bạch giới tử...

Nếu bệnh nhân thích nóng, sợ lạnh, gặp nhiệt đỡ đau, gặp hàn đau nặng là thể hàn tý thì phải thêm: phụ tử chế, ngô công, toàn yết...

Nếu đau khớp nặng, nhức như kim châm, như cắn gọi là thống tý thì phải gia thêm: tam thất, một dược, diên hồ sách, đào nhân, hồng hoa, kê huyết đằng để hoạt huyết - hóa ứ.

Tý lâu ngày hóa nhiệt thương âm:

Các khớp sưng, nóng, đỏ, đau; cứng khớp. Mới đầu gặp lạnh đau giảm, nếu lạnh lâu không có cảm giác thích, gặp nóng lại đỡ. Miệng khô mà đắng, mất ngủ, phiền táo; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc vàng nhờn; mạch huyền tế sác.

Phương trị: tán hàn trừ thấp - thanh nhiệt thông lạc.

Phương thuốc: “quế chi thược dược tri mẫu thang” gia giảm.

Quế chi 30g Xích thược 20g.

Bạch thược 20g Tri mẫu 15g.

Chế xuyên ô 15g Chế thảo ô 15g.

Ô tiêu xà 15g Sinh địa 10g.

Đương qui 15g Cương tàm 10g.

Địa long 10g Cam thảo 10g.

Gia giảm:

Nếu nhiệt thắng thì giảm bớt:quế chi, xuyên ô, thảo ô; mà gia thêm: hổ trượng, hoàng bá để bài thủy thạch. Nếu âm hư nội nhiệt, đại tiện táo kết nặng dùng thêm sinh địa 30 - 40g.

Can thận hao tổn, tỳ hư tà suy:

Chi thể cơ nhục teo nhẽo, các khớp cứng biến dạng đau nhức liên tục không giảm, đau nặng gây mất ngủ kéo dài, ngày nhẹ đêm nặng, hình thể gầy gò, mặt vàng bủng (nhợt), mệt mỏi thiểu lực, lưng gối mỏi đau, đầu choáng, tai ù, ăn kém (nạp ngại), tiện nát, khí đoản, lưỡi nhợt, rêu trắng; mạch trầm tế hơi huyền.

Pháp điều trị: bồi nguyên - ích thể - quyên tý- thông lạc.

Phương thuốc: “ích thận quyên tý hoàn”.

Sinh địa 20g Thục địa 20g.

Đương qui 20g Kê huyết đằng 20g.

Dâm dương hoắc 20g Ô tiêu xà 10g.

Nhục thung dung 20g Lộc hành thảo 10g.

Cương tàm 10g Địa miết trùng 10g.

Thảo cốt phong 10g Hổ trượng 10g.

Chi trường noãn 10g Chích ngô công 10g.

Khương lang 10g Chích toàn yết 10g.

Gia giảm:

Nếu thiên về hư thìgia thêm: hoàng kỳ, đẳng sâm.

Thêm dương hư thì gia thêm: cốt toái bổ, bổ cốt chi.

Huyết hư thì gia thêm: đương qui, kê huyết đằng, kỷ tử, a giao.

Thiên âm hư thì gia thêm: thạch hộc, mạch đông, thiên môn đông, qui bản, miết giáp.

Nếu khí trệ huyết ứ thì gia thêm: đào nhân, hồng hoa.

Hiện nay, phương thuốc trên đã được phổ cập. Sau điều trị, các chỉ tiêu sinh hoá, huyết học, miễn dich đều được cải thiện rõ rệt; các khớp giảm viêm; chức năng khớp cùng với chức năng can, thận đều được cải thiện tốt.

Các phương pháp điều trị khác:

Điện châm các huyệt:

Chi trên: khúc trì, thiếu hải, nội quan, hợp cốc, thần môn, ngoại quan, kiên ngung, kiên trinh, kiên tỉnh, khúc trạch, đại lăng, dương trì.

Chi dưới: hoàn khiêu, trật biên, thừa phù, bát liêu, yêu du, bạch hoàn du, ân môn, ủy trung, tất dương quan, độc tỵ, tất nhãn, túc tam lý, dương lăng tuyền, huyền chung, giải khê, thái xung.

Thường được chỉ định chọn huyệt tương ứng với vị trí thống điểm (điểm đau - á thị huyệt), chia làm 2 nhóm luân lưu, cách ngày một lần. Nếu có đợt tiến triển cấp, có thể châm hàng ngày, thậm chí có thể 3 giờ châm một lần (thay thế cho thuốc giảm đau; từ 7 - 10 ngày là một liệu trình; 3 - 4 liệu trình là một đợt điều trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Y học cổ truyền viêm đa dây thần kinh (đông y)

Phần lớn các trường hợp là tổn thương sợi trục dẫn đến bệnh cảnh rối loạn cảm giác, hoặc rối loạn cảm giác vận động, rất hiếm khi chỉ biểu hiện rối loạn vận động.

Y học cổ truyền suy nhược mãn tính

Do mắc bệnh lâu ngày, làm cơ thể suy yếu, Thận âm, Thận dương suy, Thận âm suy hư hỏa bốc lên, Thận dương suy chân dương nhiễu loạn ở trên.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết bàng quang (thấp nhiệt bàng quang)

Bài thứ nhất có xuất xứ từ Chứng trị chuẩn thằng, dùng tả Can hỏa và tư âm huyết. Bài thứ 2 xuất xứ từ Y tông kim giám, dùng trị mục nhọt vùng eo lưng.

Y học cổ truyền viêm màng não do não mô cầu

Khả năng kháng thuốc của màng não cầu rất mạnh, ngoài khả năng kháng lại hầu hết các thuốc kháng sinh thông thường.

Tim mạch và phong thấp nhiệt tý (thấp tim)

Viêm tim có thể gây tử vong, nhưng thường là để lại các di chứng ở van tim mà chủ yếu là van 2 lá và/hoặc van động mạch chủ.

Y học cổ truyền hen phế quản (đông y)

Có thể có triệu chứng báo hiệu hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực, Chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.

Hư lao: suy nhược cơ thể

Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: can đởm thấp nhiệt

Đau vùng hông sườn hoặc các triệu chứng ở bộ phận sinh dục, vùng quản lý của Can mang tính chất Thấp và Nhiệt.

Y học cổ truyền rối loạn hấp thu (đông y)

Tiêu phân mỡ 10 - 40 g/ngày, sinh thiết ruột non cho thấy dãn nở hệ bạch dịch và lacteat trong lớp lamina propia, các nhung mao có hình như dùi trống.

Kinh nguyệt nhiều: điều trị theo y học cổ truyền

Thận cũng ảnh hưởng rất lớn về nguyệt kinh. Thật vậy, Tâm chủ huyết, Tỳ thống huyết, Can tàng huyết. Mạch Can liên lạc với âm khí, quản lý phần bụng dưới.

Chữa chứng nấc cụt

Kích thích mũi họng bằng kéo lưỡi, nâng lưỡi gà bằng thìa, dùng ống thông kích thích vùng mũi họng và ăn một thìa nhỏ đường kính khô hoặc một mẫu chanh lạnh.

Y học cổ truyền đau dây thần kinh tọa

Đau dây thần kinh tọa được định nghĩa là một hội chứng thần kinh có đặc điểm chủ yếu là đau dọc theo lộ trình của dây thần kinh tọa và các nhánh của nó, nguyên nhân thường do bệnh lý đĩa đệm ở phần thấp của cột sống.

Y học cổ truyền liệt mặt nguyên phát (đông y)

Sau khi rời thân não, dây thần kinh mặt, có kèm theo dây phụ Wrisberg, động mạch và tùng tĩnh mạch, chạy xuyên qua xương đá trong một ống xương: vòi Fallope.

Y học cổ truyền viêm tiểu cầu thận mạn tính

Y học cổ truyền mô tả bệnh viêm cầu thận mạn tính trong chứng: thủy thũng, niệu huyết, yêu thống; thời kỳ sau thường là phạm trù hư lao.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: vị nhiệt úng thịnh

Nhiệt tà phạm Vị làm tiêu hao tân dịch, khô khát, lở miệng, tiểu sẻn. Đồng thời, nhiệt tà làm bức huyết, chảy máu răng miệng, Vị lạc với Tâm, Thần minh nên gây bức rức, cuồng sảng.

Bì phu nham (ung thư da)

Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất

Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)

Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hàn trệ can mạch

Kinh Can, trong lộ trình ở vùng bẹn, vòng quanh bộ phận sinh dục, qua bụng dưới tản ra 2 bên chânm hàn tà xâm phạm Can mạch làm kinh khí ngưng trệ nên có biểu hiện đau bụng, sán khí.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: tỳ vị thấp nhiệt

Ngoài tính chất của thử (nhiệt) tà là làm hao khí, tổn hao tân dịch và thấp tà làm trở trệ hoạt động của khí đưa đến ngăn trở hoạt động công năng của Ty Vị và làm hao tổn tân dịch của Vị

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: nhiệt kết đại trường

Nhiệt tà có tính chất tổn khí và hao tân dịch, do đó sẽ ảnh hưởng đến chức năng truyền tống của phủ Đại trường cũng như hao tổn âm dịch của phủ Đại trường.

Thống kinh: điều trị bằng y học cổ truyền

Đau bụng kinh là sự ngăn trở vận hành khí và huyết. Vì kinh nguyệt là do huyết hóa ra, huyết lại tùy vào khí để vận hành, do đó khi khí huyết hòa thuận, sung túc thì không gây đau bụng khi hành kinh.

Bệnh học ngoại cảm lục dâm: hội chứng nhiệt nhập tâm bào

Tâm bào lại là ngoại vệ của Tâm, bảo vệ cho Thiếu âm quân hỏa, Do đó, dù ngoại tà là loại gì, khi vào đến quyết âm gây bệnh thì hội chứng của nó sẽ biểu hiện mang thuộc tính của phong, của Hỏa.

Viêm sinh dục nữ: bệnh học y học cổ truyền, đông y

Đặc điểm lâm sàng khởi đầu bằng tình trạng viêm niêm mạc cơ quan sinh dục nữ, gây viêm tại chỗ sau đó lan theo chiều dài bộ phận sinh dục.

Y học cổ truyền xơ gan (đông y)

Hình ảnh lâm sàng của xơ gan xuất phát từ những thay đổi hình thái học sẽ phản ảnh mức độ trầm trọng của tổn thương hơn là nguyên nhân của các bệnh đưa tới xơ gan.

Y học cổ truyền bại não (đông y)

Mặc dù bất thường về vận động là dấu hiệu nổi bật nhất, nhưng rất thường gặp kèm theo những sa sút về trí thông minh, về phát triển tình cảm, ngôn ngữ và nhận thức.